TẠ ƠN KIM KHÁNH TUYÊN HỨA

Lm. JB. Phan Trịnh Long

 

Hôm nay, chúng ta quy tụ nhau nơi đây để chia sẻ niềm vui với 3 chị mừng kim khánh và một chị ngân khánh tận hiến cho Mẹ Maria trong ơn gọi Foyer Phú Dòng.

Có thể nói 50 năm hay 25 năm là một hành trình dài được đan kết với bao nhiêu cố gắng và vất vả, bao nhiêu thăng trầm và biến động, bao nhiêu gian khó và hân hoan; 50 năm hay 25 năm tuy có thể làm nhiều thứ phôi pha, song vẫn còn đó những kỷ niệm khó phai trong ký ức của mỗi con người, thời gian đó thật dài để ghi dấu ấn tình Chúa và tình người không thể phôi phai; 50 hay 25 năm, không chỉ được đo bằng khái niệm của thời gian, nhưng còn bằng những gì mà các chị gặt hái được.

Để rồi, nếu như có ai đó bảo rằng: “thời gian thấm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ ai đâu”, thì ngạn ngữ latinh lại bảo rằng: “Tuy bạn không giữ đước ngày hôm qua, nhưng bạn có cách để không làm mất nó”. Vậy con nghĩ, cái cách để không làm mất đi những tháng ngày qua, thì cần phải có thánh lễ tạ ơn ngày hôm nay.

Trọng kính Cha Cố Antôn, linh phụ Tu Hội Bác Ái Phú Dòng; Cha Giuse, linh phụ Foyer Cao Thái.

Kính thưa các thành viên của 3 Foyer Việt Nam, cùng với quý quan khách gần xa, cùng với quý bà con thân thuộc của các chị mừng lễ hôm nay.

Vì lý do đặc biệt về thời cuộc và lịch sử, trong khuôn khổ bài giảng này, cho phép con chỉ tập trung và chia sẻ về cuộc đời của 3 chị mừng kim khánh mà thôi, rồi mai mốt 25 năm nữa, nếu Chúa cho sống, con sẽ chia sẻ đề mừng Chị Ngân nhiều hơn. Chị Ngân có đồng ý không ạ? Vâng!

Thực ra, ít có cuộc đời xuôi chảy thẳng lối, mà trái lại đời người như dòng suối có ngàn vạn khúc quanh. Khi nhìn lại cuộc đời của 3 chị cao niên mừng kim khánh tận hiến hôm nay chúng ta thấy rõ điều đó.

Này nhé, xuất thân từ những gia đình nghèo vật chất nhưng lại giàu truyền thống đạo đức, Chị Ba thì ở Giáo xứ Dốc Mơ; Chị Thiên và Chị Tịnh thì ở Giáo xứ Võ Dõng. Khi lớn lên cả ba chị đều tham gia vào Hội Con Đức Mẹ, một hội đoàn rất đạo đức, có tinh thần hăng say phục vụ và siêng năng cầu nguyện.

Lúc bấy giờ, Cha Phaolô Võ Văn Bộ, Linh phụ tiên khởi của Foyer Bình Triệu thường xuyên tổ chức những khoá tĩnh tâm và chính Ngài cũng đi giảng tĩnh tâm ở nhiều nơi. Với tài giảng thuyết hùng hồn và ăn nói lợi khẩu, tiếng lành cứ thế đồn xa. Năm ấy, năm 1968, ba chị quyết tâm rủ nhau về Foyer Bình Triệu để cùng tham dự khoá tĩnh tâm. Để rồi, chính trong những ngày tĩnh tâm này, ba chị được đánh động, nhận ra tiếng Chúa thôi thúc mời gọi, ba chị quyết tâm dâng hiến đời mình cho Chúa trong ơn gọi Foyer.

Sau khi ở Cộng Đoàn Bình Triệu được 2 năm, đến năm 1970, ba Chị cùng với các anh chị em khác được sai đến phục vụ ở Cộng đoàn Đồng Lạc – Di Linh dưới sự hướng dẫn của Cha Guy de Reynies thuộc Hội Thừa Sai Paris. Năm năm sau, vào ngày 25/03/1975 ba Chị được tuyên hứa tận hiến đời mình cho Đức Mẹ.

Có một chi tiết đặc biệt để chúng ta thấy sự huyền nhiệm của ơn gọi: “Chúa chọn ai Chúa muốn và chọn lúc nào Ngài thích”. Chị Thiên bị viêm tai giữa gần như bị điếc, hầu như chẳng nghe thấy gì ngay từ tấm bé. Con nói điều này có đúng không hả chị Thiên? Đấy, Chị có nghe thấy gì đâu?

Vâng, bị điếc, bị nặng tai thì khó mà đi tu được! Nhưng đó là tiêu chuẩn của loài người còn Thiên Chúa thì không, Thiên Chúa luôn có lối đi riêng của Ngài như lời Ngài nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các Ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các Ngươi”. “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Và quả thật Chúa đã chọn Chị bất chấp những bất toàn khiếm khuyết của bản thân. Ngày ấy, cả 3 Chị đều được chọn để tuyên hứa với lời động viên, khích lệ từ Cha Reynies: “Chúng con cứ tin tưởng tận hiến cho Đức Mẹ, để Mẹ che chở giữ gìn”.

Sau khi 3 chị tuyên hứa để tận hiến đời mình cho Mẹ Maria, thì Cha Reynies bị trục xuất về nước, còn các chị bị bắt đi tù ở trại giam Gia Binh – Di Linh.

Người ta vẫn nói “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Làm sao kể ra hết được những tủi nhục, những vất vả mà các chị đã phải chịu trong suốt thời gian bị giam giữ cầm tù, bị quản thúc cách này cách khác. Thực ra, chỉ vì bảo vệ các Cha, các linh mục của Chúa, chỉ vì quen biết cha này cha kia mà phải bị cảnh tù tội như vậy.

Trong suốt thời gian 13 tháng tù đày, có những lúc thì bị người ta cùm chân, cùm tay, đeo gông biệt giam trong phòng kín chẳng được thấy ánh mặt trời; lâu lâu thì lại bị đe doạ, thấm vấn lấy cung; cơm ăn hàng ngày là những lát khoai lang, khoai mì phơi không đủ nắng ẩm mốc, kèm theo là mấy con cá cho heo ăn được nướng lên…

Sau hơn một năm ở trong vùng rừng sâu nước độc Di Linh ấy, tưởng người ta tha cho về, nào ngờ một lần nữa, các chị lại bị đưa lên xe bít bùng đưa đi, đưa đi đâu cũng chẳng biết, chỉ sau này hỏi ra mới hay, đó là trại Gia Chánh thuộc vùng dân tộc thiểu số người Tày. Nơi đây, các chị không còn bị giam cầm khổ cực, nghiêm ngặt như trước, vì hơn một năm qua, qua cách sống chứng nhân của người môn đệ, người ta đã tin mình, người ta đã có thiện cảm với mình, nên tại Gia Chánh này, người ta chỉ quản chế bằng cách cho ra ngoài lao động: làm cỏ, làm ruộng, trồng bắp, trồng đậu, trồng khoai, làm vệ sinh, quét dọn, nuôi heo, nuôi gà, chà bắp, chà đậu…

Bây giờ nhìn lại những tháng ngày đã qua, mọi người trong chúng ta và chính các chị tự hỏi nhau rằng? cái gì giúp cho mình có được một sức mạnh nội tâm và một sự kiên cường vững vàng đến như thế? Các chị nhận ra: À, ngoài tà áo Mẹ Maria che chở, yêu thương giữ gìn, thì chính đời sống cầu nguyện liên lỉ và việc được rước Mình Thánh Chúa hầu như hàng tuần. Nhưng câu hỏi đặt ra: Mình Thánh Chúa ở đâu mà rước trong cảnh lao tù như vậy?

Dạ đó là do: Có một Tu sĩ thuộc Dòng Mẹ Đấng Cứu Chuộc bị bắt cùng, và Thầy này được phân công đi chợ hằng ngày, nhân cơ hội đó, Thầy đã liên hệ với các Linh mục bên ngoài và khéo léo đựng Mình Thánh Chúa trong các bao diêm và đưa vào cho các Chị. Rồi các chị cùng nhau chia Mình Thánh Chúa cho mỗi người. Đúng là, Chúa luôn có cách để con cái của mình không bị đói khát nhưng luôn no thoả bằng Lương Thực Thần Lương của Ngài.

Trong thời gian này, có cán bộ nhà nước tận Hà Nội vào thăm, thấy các chị em bị bắt vô cớ, bị đối xử tệ bạc… vì vậy, họ đã ban lệnh tha cho về. Sau khi công bố và nhận được lệnh tha được ghi trên mảnh giấy gói bánh mì, các chị em chỉ kịp gói ghém những vật dụng, đặc biệt là những tượng ảnh và lên đường trở về gia đình. Tâm trạng lúc ấy cũng là tâm trạng của lời thánh vịnh 125 diễn tả: “Khi Chúa dẫn tù nhân Si-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc  mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng… Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.

Có thể nói, những hạt giống Tin Mừng mà các chị đã gieo trong tù đày suốt hơn 2 năm, đó chính là một đời sống chứng nhân của Người Môn Đệ. Khi được hỏi: Các chị có oán trách những người đã gông cùm chị, đã đối xử tệ bạc với các chị không? Một trong Ba chị trả lời: “Lúc đầu con cũng cảm thấy bực tức lắm, nhưng sau đó con cầu nguyện và nhận ra rằng: Chúa đã dùng họ để thanh luyện con, để tập cho con chấp nhận những gian khổ, có như thế, sau giải phóng con mới sống được cha ạ. Rồi, chính tập sách “Người Lữ Hành trên Đường Hy Vọng” của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận” gợi hứng cho con. Con nhận ra rằng: Chẳng có ai là kẻ thù của con cả. Khi con bực mình với họ thì con lại cầu nguyện cho họ. Con vẫn cầu nguyện cho những người bắt bớ con. Và đó cũng là lý do con chọn cho mình câu khẩu hiệu của đời dâng hiến: “Tha nhân là quà tặng; vâng phục là bình an. Hiện nay, con sống tuổi già rất là hạnh phúc”.

 Sau thời gian tù đày và quản thúc ấy, các chị được trở về gia đình riêng, nhưng tình chị em, nhưng ơn gọi sống đời cộng đoàn đã thôi thúc, các chị lại tìm đến với nhau quy tụ về một căn nhà của một người dân ở vùng Phương Lâm để cùng nâng đỡ nhau, sinh sống, lao động , cầu nguyện và làm việc bác ái.

Một năm sau, tức là vào năm 1978, các chị lại quy tụ về nơi đây, nơi mảnh đất Phú Dòng này. Nơi đây, Các Chị được Đức Cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng, nguyên Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc và Cha Gioa Kim Nguyễn Định là Cha Sở Giáo Xứ Phú Dòng này động viên, giúp đỡ. Các chị đã cùng nhau mua một mảnh đất rộng 1600 m2 (một sào sáu), dựng một căn nhà cấp 4 tạm bợ để cùng nhau sống ơn gọi Foyer. Vạn sự khởi đầu nan, trong những ngày đầu sống ở đây, các chị đã gặp rất nhiều khó khăn từ chính quyền địa phương, đã từng bị những người vác súng tới hăm doạ đuổi đi. Cũng tại nơi đây, Đức Cha Giáo Phận đã cho phép đặt Mình Thánh Chúa trong phòng nguyện để các chị sớm tối cầu nguyện. Và Mình Thánh Chúa vẫn luôn là động lực, là sức mạnh đã giúp các Chị vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách.

12 năm sau, tức là năm 1990, Cha Antôn Trần Văn Bài được Đức Giám Mục Giáo Phận chính thức sai về đây làm Linh Phụ. Cha cùng với các chị em từng bước mua thêm đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, để rồi chúng ta thấy Foyer Phú Dòng có được bộ mặt rộng lớn, khang trang, tiện nghi như hiện nay để có cơ hội đón khách tĩnh tâm tốt hơn.

Vâng, “Mỗi bước tiến là một lời cảm tạ, mỗi chặng đường là dấu chứng của tình yêu”. Hôm nay, 3 chị mừng kim khánh tuyên hứa cũng là dịp nhìn lại những chặng đường đã qua, đặc biệt nhìn lại tuổi đời của mỗi người.

Chúa ban cho 3 Chị năm nay đã là U90 – 80 cả rồi. Chị Ba năm nay 87 tuổi; Chị Tịnh 76; Chị Thiên 75. Đây là lứa tuổi mà 3 chị cần phải dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì trong thực tế có những người đã chết khi còn trong bụng mẹ. Lại có những người chết khi tuổi đời còn rất trẻ. Chẳng vì thế mà Đỗ Phủ đã nhận định: “nhân sinh thất thập cổ lai hy, người thọ 70 xưa nay hiếm”. Còn lời Thánh Vịnh thì bảo rằng: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi”. Như thế, 70 tuổi đã là hàng hiếm, phương chi lên hàng 80 thì lại càng quý hiếm hơn. Vì thế, đây quả là hồng phúc mà Chúa đã thương ban cách riêng cho Tu Hội Phú Dòng chúng con. Ơ, thế đứng trước hồng phúc Chúa ban như thế mà anh chị em lại không vỗ một tràng pháo tay để chúc mừng nhỉ?

 Kính thưa cộng đoàn, sở dĩ chúng ta phải vỗ tay, phải chúc mừng là bởi vì, khi nói về người cao tuổi, Đức Thánh Cha Phanxicô trong sắc chỉ khai mạc Năm Thánh “Spes non Confundit” mới đây đã nói như thế này: “Những người cao tuổi xứng đáng có được những dấu chỉ của niềm hy vọng. Những người này thường trải qua cảm giác bị bỏ rơi. Cộng đồng Kitô giáo và xã hội dân sự có trách nhiệm trân trọng những người cao tuổi như là những kho báu, trân trọng kinh nghiệm sống, sự khôn ngoan và những đóng góp của họ. Tôi đặc biệt nghĩ đến các ông bà nội ngoại là những người đầy niềm tin và kinh nghiệm sống để trao lại cho thế hệ trẻ”.

Anh chị em có nghe thấy rõ không? Đức Thánh Cha Phanxicô gọi “Những người cao tuổi là những người đầy niềm tin, đầy kinh nghiệm sống và là những kho báu”. Nếu vậy thì cho con hỏi, hiện nay trong các Foyer Việt Nam chúng ta thì Foyer nào nhiều kho báu nhất ạ? Riêng Foyer Phú Dòng nhà chúng con có tới 4 kho báu. Còn các Foyer khác, xin hỏi Bình Triệu mấy ạ? Cao Thái bao nhiêu ạ?

Ô, nếu mà như vậy, thì các Foyer Việt Nam chúng ta thật là giàu có, chúng ta có nhiều kho tàng, nhiều kho báu trong chính cộng đoàn mình. Vậy, chả lẽ chúng ta lại quên vỗ tay à!

Thế thì khi sở hữu những kho báu như thế, chúng ta phải làm gì? Đức Thánh Cha nhắc nhở mỗi người, đặc biệt nhắc các thế hệ trẻ như thế này: “Mong sao những người cao tuổi được nâng đỡ với lòng biết ơn của các con, các cháu, những người tìm thấy nơi họ một chỗ dựa, niềm cảm thông và sự khích lệ”.

Và có một điểm con thấy rất là thích nơi Đức Thánh Cha, đó là Ngài không chỉ gọi các cụ cao tuổi là kho báu mà trong thông điệp Ngày Quốc tế Ông Bà và Người Cao Tuổi năm 2022, Ngài còn  khẳng định thế này: “tuổi già là tuổi bước vào một cái mùa sinh sôi nảy nở nhiều hoa trái.”

Anh chị em thấy có lạ không? Tuổi già là tuổi khô héo. Vậy mà Đức Thánh Cha lại nói: “Tuổi già là tuổi bước vào một mùa sinh sôi nảy nở đầy hoa cái”. Thực ra, đây là điều không hề phi lý, bởi vì tư tưởng này đã được gợi hứng từ chính trong (Tv 92): “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá ly băng, được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đề thánh Chúa ta. Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”.

Thật vậy, trong Kinh Thánh, tuổi già mới là độ tuổi chín mùi của hy vọng. Bởi vì, phải sống đủ lâu đủ dài thì con người ta mới thấy được niềm hy vọng của mình nơi Thiên Chúa thành hiện thực. Chẳng hạn như, tổ phụ Áp-ra-ham, khi được Chúa gọi lên đường rời bỏ quê cha đất tổ khi đó đã là 75 tuổi. Rồi khi Isaác được sinh ra, năm đó Áp-ra-ham đã gần 100 tuổi. Đó là độ tuổi đủ lâu, đủ dài, đủ chín để Áp-ra-ham thấy được niềm hy vọng của mình vào lời hứa của Thiên Chúa thành hiện thực. Hay như Mose, vị thủ lãnh của dân chúa khi được gọi và trao ban sứ mạng dẫn đoàn dân của mình rời khỏi Ai Cập, băng qua biển đỏ để tiến về đất hứa, lúc đó Moses đã 80 tuổi. Đó là độ tuổi dày dạn kinh nghiệm được Thiên Chúa tin tưởng. Thế nên, phải đủ già, phải đủ chín muồi thì người ta mới thấy được giá trị của niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thành hiện thực.

Hôm nay, quy tụ về đây tham dự thánh lễ tạ ơn của các chị,  chúng ta thấy không trống, không  kèn, cũng chẳng tưng bừng, tươi vui, nhộn nhịp như các lễ Tiên Khấn và Vĩnh Khấn, hay những lễ mở tay của các tân linh mục, nhưng nó mang một dáng vẻ thâm trầm của những nhân chứng Đức Tin và Lịch Sử. Tấm lưng của các chị mừng kim khánh hôm nay không còn thẳng thớm như ngày xưa, đôi chân của các chị cũng không còn nhanh nhẹn vững vàng mà phải được nâng đỡ từ những chiếc gậy hay những chiếc xe lăn; đôi vai của các chị đã có phần nghiêng ngả xiêu vẹo bởi những gánh nặng của cuộc đời; giọng nói đã nhễu nhão; răng đã rụng; đôi mắt đã mờ đục, mái tóc đã bạc màu theo thời gian năm tháng…, nhưng, nơi các chị vẫn bật lên một sức mạnh nội tâm, vẫn ngời sáng lên lòng trung tín và can đảm bởi vì “vàng thử lửa, gian nan thử sức”.

Vâng, sở dĩ như thế là bởi vì các chị đã được Chúa kêu gọi từ năm 18 đôi mươi, đến nay, sau 50 năm đi theo Chúa trên mọi nẻo đường, các chị lại cùng với nhau dâng lời tạ ơn Thiên Chúa nơi nhà nguyện thân thương này như lời bộc bạch của linh mục Trăng Thập Tự: “Ngày xưa Chúa gọi con đi, bây giờ Chúa bảo con quỳ xuống đây”. Con quỳ xuống đây để thân thưa với Chúa rằng:

Từ độ thanh xuân lạy Thiên Chúa

Ngài đã quyến rũ con, đưa con vào cuộc tình

Lòng kề lòng Chúa và con

Ôi ân huệ tình yêu tuyệt mỹ.

Lạy Chúa, năm mươi năm đời con dâng hiến Chúa

Năm mươi năm chuỗi ngày Hồng Ân

Giờ đây, con xin hết lòng cảm tạ ơn Chúa

Vì Ngài thương con như biển như trời

Vì Ngài thương con không bờ không bến

Chúa ơi! Con biết lấy gì mà đáp đền

Con biết lấy gì mà đền đáp Chúa suối đời con.

 

Cuộc đời con nay đã xế bóng

Lạy Chúa chớ bỏ con, con tin cậy vào Ngài

Trọn cuộc đời con vịnh ca

Kính dâng Ngài tình yêu tuyệt mỹ.

Vâng, mừng lễ 50 năm tuyên hứa của 3 chị, đúng ra con phải giảng 50 phút thì nó mới đáng đồng tiền bát gạo, thì nó mới thoả đáng, nhưng con lại sợ, nếu mà giảng 50 phút thì lát nữa sau lễ mọi người xúm lại ném đá con chết, không chừng lại không cho ăn cơm trưa… Thế cho nên, cho phép con dừng lại ở đây, dừng ở đây với một lời cầu nguyện của Cha Perico, một lời cầu nguyện rất hay như là một lời cầu chúc đến 3 chị:

Lạy Chúa xin dạy con biết cách già như một người kitô hữu. Xin thuyết phục con rằng: người ta chẳng hề bất công khi cất khỏi con mọi trách nhiệm, khi chẳng còn ai tìm đến hỏi ý kiến của con, khi một người khác được đặt vào chỗ vốn là của con trước đây. Xin hãy tước khỏi con niềm tự hào với những kinh nghiệm đã thuộc về quá khứ. Xin hãy cất khỏi con cảm giác rằng con là người bất khả thay thế.

Ôi lạy Chúa! Ước gì qua sự mất mát từng ngày đối với những phù hoa vật chất, con nhìn ra được quy luật của thời gian và nhận ra cuộc đời con vẫn đang diễn tiến từng ngày dưới sự thôi thúc của một bàn tay quan phòng kỳ diệu.

Lạy Chúa! Xin hãy giúp con để con vẫn còn hữu ích với người khác, nhất là những người đang gánh vác nhiều trách nhiệm, bằng sự lạc quan và lời kinh nguyện, bằng sự vui tươi và nhiệt huyết sống. Xin kết nối con vào cuộc đời, giữa một thế giới không ngừng đổi thay, bằng thái độ sống khiêm tốn và thanh thản, mà không cần phải ca thán vì những gì đã qua.

Xin dạy con biết chấp nhận bước ra khỏi sân chơi của cuộc đời, như con đã từng thản nhiên đón nhận khi những buổi hoàng hôn lịm tắt. Con cũng cầu xin Chúa tha thứ, nếu mãi đến lúc này, những buổi chiều tà xế bóng, con mới nhận ra Chúa đã yêu con đến dường nào. Xin Chúa tiếp tục dạy con biết nhìn ngắm phúc phận của đời mình, với một lòng biết ơn sâu xa, phúc phận mà Chúa đã chuẩn bị cho con, và không ngừng dẫn bước con tiến về, khởi từ giây phút đầu tiên của cuộc đời con.

Lạy Chúa, xin dạy 3 chị của chúng con biết cách già như thế.

Ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng trong ơn gọi Foyer de Charité

Giuse Nguyễn Trọng Sơn

1. Làm mới lại ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng trong ơn gọi Foyer de Charité

Kỷ niệm ngày tuyên hứa là kỷ niệm ngày thánh hiến.[1] Thánh hiến có nghĩa là thuộc về Đấng Thánh là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn từng người một, đích danh, để thuộc về Ngài. Và mỗi người chúng ta đã tự do đáp lại. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta cần làm mới lại sự thánh hiến này.

Có những dịp đặc biệt để làm mới lại ơn gọi thánh hiến, nhưng phải nói rằng, để sống ơn gọi thuộc về Thiên Chúa, thì người được gọi phải làm cho ơn gọi trở nên mới mẻ từng ngày, có nghĩa là phải thưa “xin vâng” mọi ngày, trong mỗi công việc, mỗi cơ hội diễn ra trong đời sống. Khi nào không làm cho ơn gọi trở nên hiện sinh thì ơn gọi đang “cũ mốc” đi, và đánh mất ý nghĩa thực sự của ơn gọi!

Thánh hiến là tác động của Thiên Chúa, còn hiến dâng là hành vị đáp trả của con người.

Mọi ơn gọi kitô giáo đều mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng, nhưng mỗi ơn gọi lại mang thêm những ý nghĩa đặc thù theo đặc sủng sáng lập. Vậy ơn gọi Foyer de Charité mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng nào?

2. Thánh hiến-hiến dâng mang ý nghĩa toàn bộ sự hiện diện, toàn thể cuộc hiện sinh

Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp ơn gọi năm nay (2025) về sự hiến dâng toàn bộ đời sống/ cuộc sống.[2] Sự hiến dâng không “ngồi chờ” để thể hiện vào lúc ai đó đòi giết mình, nhưng hiến dâng toàn bộ cuộc sống, toàn bộ cuộc hiện sinh.

Sự thánh hiến-hiến dâng của chị Marthe khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ. Năm 16 tuổi (1918), cô Marthe té ngã trong nhà bếp, cô ở trong tình trạng “lơ mơ” (được gọi là “un coma mystique”, vì có Thiên Chúa can thiệp), phải nằm giường một thời gian. Lúc này Đức Trinh Nữ hiện ra với cô: “Tôi đã thấy Đức Trinh Nữ”. Tháng ba (hoặc tháng tư hoặc tháng năm?) năm 1921, khi có thể đứng dậy được, thì “cô không còn là mình như trước đó nữa”.[3] Mùa Xuân năm 1922, lúc 20 tuổi, cô đọc được dòng chữ sau trong một cuốn sách đạo đức cũ: “Tại sao con tìm kiếm nghỉ ngơi, bởi vì con được dựng nên để chiến đấu mà? Tại sao con tìm kiếm hạnh phúc, bởi vì con được dựng nên cho đau khổ mà?”[4]. Cô Marthe nghe thúc đẩy trong lòng: “Đau khổ dành cho con”. Rồi cô đọc tiếp: “Phải trao hiến cho Thiên Chúa tất cả”. Ba năm nằm giường bệnh, đau đớn về tinh thần và thể xác cùng với sự thinh lặng và nhất là cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ đã đưa đến cho cô một trải nghiệm mới. Cô Marthe liền quỳ gối xuống và nói lời xin vâng.[5]

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài đã yêu cầu tất cả nơi nữ tỳ bé nhỏ của Ngài: vậy xin hãy lấy và đón nhận tất cả.

Ngày ấy, con đã đặt tất cả nơi Ngài, không giữ lại gì và không lấy lại.

Xin hãy nhận lấy trí khôn của con và dùng nó cho vinh quang của Ngài.

Hãy nhận lấy tất cả ý muốn của con…[7]

Hãy nhận lấy thân xác con, các giác quan, trí tuệ con, tất cả những khả năng, con tim và tất cả tình cảm của con.

Hãy nhận lấy hiến lễ mà trong thinh lặng con dâng Chúa từng ngày và mọi thời khắc…

Hãy nhận lấy và thánh hoá mọi lời nói, mọi hoạt động, mọi khát vọng của con.

Cần phải nhận ra rằng việc dâng hiến mạng sống đòi hỏi một sự đáp trả quảng đại và trung thành. Hãy nhìn các vị thánh và chân phước trẻ đã vui mừng đáp lại tiếng gọi của Chúa… Mỗi người trong số các ngài đã sống ơn gọi của mình như một con đường dẫn đến hạnh phúc trọn vẹn, trong mối tương quan với Chúa Giêsu hằng sống (Sứ điệp, 2)

Người được gọi cảm nhận mình được yêu thương:

Thiên Chúa muốn đánh thức nơi mỗi người ý thức được yêu thương, được kêu gọi và được sai đi như một người lữ hành hy vọng.” (Sứ điệp, 1)[8]

3. Sự thánh hiến và hiến dâng mang ý nghĩa tương tác liên vị chứ không phải là để làm việc

Mọi ơn gọi được cảm nhận sâu xa trong tâm hồn đều nảy sinh sự đáp trả như một động lực nội tâm hướng tới tình yêu và sự phục vụ, như nguồn hy vọng và bác ái chứ không phải như một cuộc tìm kiếm sự khẳng định bản thân (Sứ điệp, 2)

Nếu ơn gọi đích thực có hướng đi về với tha nhân thì cũng có thể nói ngược lại, nếu không thể hiện được tính hướng tha trong đời sống ơn gọi thì có nghĩa là, hoặc không có ơn gọi, hoặc đã hiểu sai về ơn gọi!

Chị Marthe “sống” đau khổ do bệnh tật của mình trong một ý thức về tình yêu rất rõ ràng.

Lạy Đấng Yêu Dấu của con, con chỉ muốn một mình Ngài mà thôi… Và vì tình yêu dành cho Ngài, con từ bỏ tất cả…[9]

Việc được chia sẻ những dấu thánh được Chị coi như cách để sống tình yêu cách mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu Kitô. Chị cũng coi đó là cơ hội để cầu nguyện cho tha nhân, nhất là những tội nhân.

Chị không có sức khoẻ để làm việc sinh ra lợi nhuận hay để cáng đáng những công việc trong cộng đoàn, nhưng trên giường bệnh, Chị dâng chính bệnh tật của mình để cầu nguyện cho người khác. Chị sống đức ái bằng sự đón tiếp với lòng yêu mến. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và đời sống tâm linh sâu sắc của Chị thực sự mang lại lợi ích cho rất nhiều người đến với Chị.

“Chúa Giêsu đã yêu tôi đến nỗi chịu đau khổ và chết trên thập giá. Tôi cũng muốn yêu Ngài bằng cách hiến dâng mọi đau khổ của mình cho Ngài.”

“Yêu thương có nghĩa là quên đi bản thân mình để nghĩ đến người khác, để phục vụ họ, để cầu nguyện cho họ, để mang lại cho họ niềm vui và sự bình an.”

“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám hiến mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu thực sự không phải là tìm kiếm hạnh phúc riêng mình, mà là dám cho đi, dám hy sinh.”

“Chỉ có tình yêu mới làm cho tâm hồn thực sự hạnh phúc. Một trái tim biết yêu thương là một trái tim luôn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.”

Gợi ý suy tư

  1. Hãy nhận diện lối sống “ơn gọi ngày lễ” (dịp tuyên hứa, kỷ niệm tuyên hứa hay một dịp lễ gì đó), sống ơn gọi “khi có khách”; mà không phải là sống ơn gọi hàng ngày, sống ơn gọi nơi những điều giản dị, sống ơn gọi với những anh chị em trong cộng đoàn sống với mình mỗi ngày.
  2. Chọn lựa “Bước đi cùng nhau” của 3 FVN giúp chúng ta thế nào để sống ơn gọi đúng nghĩa?

[1] Nhớ lại ngày thánh hiến cũng mang ý nghĩa tương tự.

[2] “Pellegrini di speranza: il dono della vita/ Pèlerins d’espérance: le don de la vie” được chuyển sang tiếng Việt là: “Những người hành hương hy vọng: dâng hiến mạng sống” (Tý Linh chuyển ngữ. https://xuanbichvietnam.net/); hoặc “Những người hành hương hy vọng: quà tặng sự sống” (https://www.vaticannews.va/). “Mạng sống” nhấn mạnh thái độ sẵn sàng chết cho. “Sự sống” lưu tâm đến cuộc hiện sinh. Nội dung sứ điệp lưu tâm đến nghĩa thứ hai này.

[3] Raymond Peyret, Petite vie de Marthe Robin. Le secret de Marthe, éd. Peuple Libre, Desclée de Brouwer, 1988, tr.36.

[4] Xem Nhật ký của Marthe Robin ngày 14/09/1930.

[5] Raymond Peyret, tr. 37-38.

[6] Raymond Peyret, tr.39-41.

[7] Chị Marthe từ bỏ ý muốn xin được chữa lành bệnh, xin được chữa lành để theo ơn gọi dòng nữ Cát Minh như “người chị yêu dấu” Têrêsa Chúa Giêsu Hài Đồng.

[8] Phanxicô, sứ điệp Ngày Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, 2025.

[9] Raymond Peyret, tr.39.

CÁI CHẾT CỦA MỘT TIÊN TRI

“Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ.” (Mc 6,28)

Suy niệm: Trong Tin Mừng hôm nay thánh Marcô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gioan Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giêsu lẫy lừng về những lời giảng, hành động uy quyền đã đến ta Hêrođê khiến ông ta sống bất an, lương tâm ray rứt và nghĩ rằng chính Gioan Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giêsu. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đẫ đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắt rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời họ hoán cải. Bài Tin Mừng còn cho chúng ta thấy một lời thề thiếu khôn ngoan, một quan niệm thiển cận về danh dự của một bạo Chúa cũng như lòng hận thù của một hoàng hậu lăng loàn đã đưa Gioan Tẩy Giả vào cái chết. Nhưng đây là cái chết đã nâng Ngài lên cao trên đài danh vọng, danh vọng của các tiên tri đích thực, vì Gioan cũng bị đau khổ giam cầm và chết vì lời mình rao giảng. Ngài đã dám vạch trần những vấp phạm của mọi người, không khiếp sợ, kể cả những tội lỗi của các vua chúa là những người nắm toàn quyền sinh sát lúc bấy giờ. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Can trường với lời nói của mình, cụ thể là tội loạn luân của vua Hêrôđê và hoàng hậu Hêrôđiađê. Qua đó, Gioan Tẩy Giả đã sống để nói lên sự thật và đã chết để bảo vệ sự thật: sự thật về hiện tình xã hội, sự thật về thực trạng của từng cá nhân và sự thật về chính mình. Gioan tuyên bố rõ Ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Cứu Tinh đến. Để sống ơn gọi ngôn sứ như Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta phải can đảm sống sự thật, làm chứng cho sự thật, ngăn chặn sự xấu xa đang diễn ra xung quanh, và dám chấp nhận đau khổ vì Tin Mừng. Đừng để những đam mê, những mối lợi hay vì sợ bị thua thiệt cười chê mà rời xa lối sống Phúc Âm. Thiên Chúa giao cho chúng ta chịu trách nhiệm lẫn nhau. Chúng ta sẽ mắc tội nặng, phải trả lẽ khi thấy sai mà không lên tiếng, khi thấy đúng mà không làm, khi thấy tốt mà không kéo người khác theo.

Mỗi người đều có một ơn gọi và tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Đức Giêsu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô. Qua hành động và lời nói, người ta sẽ nhận thấy chúng ta đang sống miền vui khi tin nhận Đức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta sẽ không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta tìm được sức mạnh từ ơn cứu độ của Đức Kitô.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả cho con hiểu rằng đam mê tội lỗi làm cho lòng người ra mù quáng, lôi kéo từ tội này đến tội khác, từ sai lầm này đến sai lầm khác. Người này phạm tội kéo theo người khác phạm tội. Sự xấu ngày càng lan rộng. Trong khi đó, ít người dám sống niềm tin, sống chính trực, ít người dám nói sự thật, ít người dám ngăn chặn sự ác, và lôi kéo người khác làm sự thiện. Chính con cũng chưa sống được như vậy. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con và xin Chúa giúp chúng con biết hoán cải lắng nghe tiếng lương tâm mách bảo và chu toàn sứ mạng làm chứng cho Tin Mừng trong giây phút hiện tại. Amen.

GIẢ HÌNH DẪN ĐẾN SA ĐỌA

“Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp.” (Mt 23,27)

Suy niệm: Sự sa đọa tệ hại nhất của đời người là sự giả hình. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục lên án thói giả hình của luật sĩ và biệt phái trong việc xây mồ mả cho các tiên tri, mà cha ông họ đã giết chết. Những lối đạo đức giả của các luật sĩ và biệt phái làm cho Đức Giêsu bực mình. Người gọi họ là mồ mả tô vôi. Bởi cuộc sống của họ cứ cố gắng tô trát cái vỏ bên ngoài để che giấu tâm địa bên trong. Chúa thấu suốt cách sống của họ và lên án gắt gao. Thành ngữ Việt Nam có câu tương tự như câu nói trong tin mừng “mồ mả tô vôi”đó là “Ngoài miệng thì niệm nam mô, trong lòng thì chứa một bồ dao găm”. Cuộc sống thường ngày của chúng ta cũng không ít lần đã sống theo thói giả hình này. Rồi trách người thì dễ, sửa mình mới khó. Bao lần chúng ta rất nhanh miệng phê phán chê trách người này người khác nhưng lại ít khi xét đến mình. Chúa muốn ta chân thành trong phê phán, trong nhận thức và trong cuộc sống.Về thể lý mỗi người có một khuôn mặt. Từ khi con người có mặt trên trái đất, khuôn mặt từng người không ai giống ai, kể cả anh em sinh đôi. Thiên Chúa quả thật tuyệt vời khi tạo dựng nên từng khuôn mặt độc đáo cho con người. “Một môn đệ liêm chính không bao giờ mang một khuôn mặt giả tạo, cũng chẳng giả vờ là điều gì ngoại trừ điều mình thật sự là”(B.Manning). Thế nhưng, con người cũng “sáng tạo” cho mình khuôn mặt thứ hai, khuôn mặt ảo, giả tạo, bằng một cái mặt nạ. Khi đeo mặt nạ ấy vào, tâm hồn với những ý đồ xấu xí bên trong của ta được che giấu bởi lời nói, cử chỉ tốt đẹp bên ngoài. Có thể tâm địa ta đầy những dự tính khoe mình, tự phụ, tham lam, ham muốn, trục lợi, độc ác… lại được che đậy, ngụy trang bằng cách hành xử đạo đức, bác ái, quảng đại, vị tha… đánh lừa được nhiều người. Thay vì lòng đạo đức giúp con ngày cang tiến sâu sống thân mật, yêu mến Chúa, thì sự giả hình đã làm cho con tưởng như vậy là mình trổi vượt hơn kẻ khác. Quyết tâm sửa đổi, hầu xứng đáng là người môn đệ liêm chính của Chúa Ki-tô. Người môn đệ Chúa Ki-tô “bị” đòi hỏi trở nên trong sáng, minh bạch: thống nhất giữa tâm hồn và cách hành xử bên ngoài, giữa lời nói và việc làm, giữa điều mình tuyên xưng trong nhà thờ và cách sống ngoài đời.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đang phê phán gắt gao sự giả hình, giả dối trong con. Xin Chúa giúp con đặt nền tảng của các mối quan hệ, đó là sống trong tình yêu thương chân thật đối vói Chúa và đói với anh chị em. Lạy Chúa Giê-su, Chúa là mẫu gương về lối sống trung trực, trong sáng giữa tâm hồn bên trong và cung cách bày tỏ bên ngoài. Xin cho con ghi khắc mẫu gương của Chúa, để con cũng là người môn đệ liêm chính của Ngài.

TRONG – NGOÀI

“Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.” (Mt 23,23)

Suy niệm: Đức Giê-su thẳng thắn chỉ cho người Pha-ri-sêu và các kinh sư thấy sai lầm của họ: chỉ tuân giữ các luật lệ bên ngoài, nhưng lại bỏ qua trọng tâm của các luật lệ là “công lý, lòng nhân và thành tín.” Như vậy, họ tuân giữ điều tùy phụ, mà cố tình bỏ qua cái cốt lõi bên trong. Xuyên qua những tập tục của người Do Thái, chúng ta nhận thấy Chúa đang chất vấn đời sống đạo của chúng ta. Chúng ta đi lễ, đọc kinh, chầu Thánh Thể hằng ngày, trong khi đó lại hận thù ghen ghét anh chị em. Chúng ta đi làm từ thiện, bác ái, nhưng chính lúc ấy lại nói xấu nói hành, gây đau khổ cho người khác. Chúng ta không dám xúc phạm đến Chúa, đang lúc ấy lại dễ dàng chà đạp, xúc phạm đến anh chị em. Con người ngày nay, cách riêng các bạn trẻ, dễ lẫn lộn giữa điều chính và việc phụ, giữa thực tại và cái ảo tưởng. Chẳng hạn: đắm chìm với cuộc sống ảo trên mạng xã hội, rút lui, xao lãng cuộc sống thực. Khi cuộc sống ảo lên ngôi, các giá trị tưởng tượng được đề cao, thì cuộc sống thực, các giá trị thực sự như tình yêu thương con người, lòng bác ái, bao dung tha thứ, hy sinh vì tha nhân bị xem nhẹ. Hôm nay Chúa dạy con; Cốt lõi của mọi lề luật là công bình và bác ái. Vì thế, bạn hãy chọn hai nhân đức ấy là tiêu chuẩn cho đời Ki-tô hữu của mình, cũng như áp dụng cho mọi cách hành xử trong đời thường. Chúng ta nên dành thời gian cuối ngày để xét mình, xem tôi đã thực thi đức công bình và bác ái như thế nào với người khác, đặc biệt với những người sống ngay bên cạnh mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, hôm nay Chúa dạy con: điều quan trọng nhất trong lề luật là công bằng, lòng nhân và thành tín. Chắc chắn Chúa không dạy bỏ Chúa để yêu anh chị em. Chúa muốn dạy chúng con công bằng và bác ái cũng quan trọng như yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết sống cốt lõi của lề luật là thực thi công bằng và bác ái  như dấu chứng lòng con yêu mến Chúa Amen

CHÚA GIÊSU KHIỂN TRÁCH SỰ GIẢ HÌNH

“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.” (Mt 23,13)

Suy niệm: Lời Chúa nói hôm nay có vẻ khó nghe, nhưng lại là những lời đánh động lương tâm chúng ta. Vẫn còn đó câu truyền miệng ‘tin Chúa, chứ không tin người có đạo.’ Bởi đâu lại có tình trạng đáng tiếc này? Thưa, bởi vì chúng ta vẫn còn sống theo kiểu Pha-ri-sêu: thói giả hình.

Chúng ta đừng nghĩ Chúa chỉ nói đến những người kinh sư và Pha-ri-sêu ngày xưa. Không phải thế! Tin Mừng luôn mang tính thời sự, mãi mới mẻ, có giá trị mọi thời, mọi nơi, nhất là với ta hôm nay. Lắm khi ta có cái nhìn không mấy thiện cảm với những người bị dán nhãn ‘tội lỗi, khô khan, nguội lạnh,’ để rồi không dám mở lòng ra đến với họ. Chúa muốn chúng ta yêu mến mọi người mà không giữ gì làm của riêng. Chúa muốn chúng ta nắm chặt bàn tay thân tình mà không giật lại cho mình. Thế mà chúng ta toàn làm những điều ngược lại. Chúng ta có thể yêu người khác và sẵn sàng làm tất cả cho họ; thế nhưng kèm theo đó là gì?

Là những đòi hỏi, những điều kiện mà chúng ta muốn người khác phải trả cho chúng ta xứng với cái mà chúng ta đã làm cho họ. thật vậy chúng ta vẫn thường khắt khe đòi buộc người khác giữ luật Chúa, còn mình thì sống qua loa tìm cớ biện hộ cho mình. Chúng ta dạy người ta phải sống Tin Mừng, đang khi cuộc sống của mình đầy dẫy những gương xấu. Chúng ta hăng say làm việc này việc nọ, nhưng những việc đó nhằm vinh danh chính mình hơn vinh danh Chúa.

Trên cánh đồng truyền giáo lúa đang chín rộ, thật vậy ngày nay vẫn còn đó thật nhiều tâm hồn đang đi tìm chân lý và chính đạo. Bạn làm gì để họ có thể thấy được giá trị Nước Trời nơi Bạn? Bạn có cởi mở lòng mình cho tha nhân thấy Chúa không? không phải chỉ ngày xưa Chúa đã than trách nhóm kinh sư và biệt phái giả hình. Ngày hôm nay, Chúa cũng đang trách mỗi người trong chúng con vì nhiều khi chúng con cũng sống giả hình, lời nói của chúng con không đi đôi với việc làm, làm gương mù gương xấu cho những người xung quanh chúng con. Xin Chúa thứ tha và giúp con biết sống với Chúa như con đối với cha, đừng quá chú trọng đến lề luật. mỗi khi làm điều gì, câu hỏi trước tiên của chúng con phải là: “Tôi làm như thế có đẹp lòng Chúa không?” chứ không phải tôi làm có đúng luật không?

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống chân thành với Chúa, với tha nhân, với chính bản thân, để cuộc sống chúng con thực sự phản chiếu tình yêu Chúa qua những hành vi yêu thương phục vụ của chúng con. Amen

TRUNG KIÊN ĐẾN CÙNG

“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68).

Suy niệm: Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta chứng kiến thái độ từ chối của các môn đệ và thái độ tin nhận của các tông đồ để chúng ta kiểm chứng lại thái độ đức tin của chúng ta đối với Chúa, với lời của Chúa.

Một số người theo Chúa Giê-su đã ‘rẽ đường’ vì không chấp nhận lời giảng ‘chói tai’: “Làm sao ông này lấy thịt ông cho chúng ta ăn được!” Chúng ta cũng cảm thấy chói tai khi chúng ta thấy Lời Chúa khác với ý nghĩ, sở thích của mình, hoặc ngược với điều mình muốn. Nếu cứ tiếp tục như vậy, sẽ có lúc ta phản lại Lời Chúa và bỏ Chúa nữa. Người ta sống với nhau hay sinh ra trục trặc với nhau chỉ vì không hiểu nhau. Các môn đệ bỏ Chúa vì không hiểu Chúa nói, chúng ta ở xa Chúa không tha thiết gắn bó với Chúa chỉ vì chúng ta không cố gắng học biết và thông hiều Lời Chúa. Đối lại, Phê-rô vẫn vững một lập trường: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có sự sống đời đời.” Phê-rô tin mình không lầm khi chọn Thầy là Đường để bước theo. Nhờ niềm tin kiên định cùng với ơn Chúa ban Phê-rô đi đến cùng con đường ơn gọi của mình, là dùng cái chết để minh chứng cho niềm tin yêu vào Thầy.

Trong nhiều thời kỳ bách hại của Giáo Hội, bạn dễ dàng nhận ra hai thái độ rõ rệt: trung kiên theo Chúa đến cùng, cho dù phải bỏ mạng, hoặc chọn giải pháp ‘bỏ của chạy lấy người.’ Lịch sử ấy, dưới một hình thức khác, cũng đang lặp lại trong thế giới hiện đại này; thế giới hôm nay cũng thách đố người Ki-tô hữu khi đối diện cám dỗ chọn lựa tiền của, danh vọng hay là Thiên Chúa và đức tin của mình. Đâu là những thách đố của đức tin mà tôi gặp phải và đâu là chọn lựa của tôi về đời sống thiêng liêng hằng ngày?

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con luôn cậy trông vào Chúa, không bao giờ thất vọng dù gặp gian nan. Amen.

CHÚA TÌM TÔI HAY TÔI TÌM CHÚA

“Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối.”

Suy niệm: Trước khi ông Na-tha-na-en gặp và thưa chuyện với Chúa thì ông đã tỏ vẻ hoài nghi khi được người bạn giới thiệu Đức Giêsu chính là Đấng Messia, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiaret. Quả thực, sự tương phản về quan niệm về một Đấng Messia  vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm cùa mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia. Ba-tô-lô-mê-ô tuy mang sẵn định kiến, về Na-da-ret nhưng lại giàu thiện chí. Ông đã đến như bạn mình đề nghị và khi gặp được Chúa Giê-su, thì Chúa đã nói cho ông biết Ngài  thấy ông ở dưới cây vả. Chúa còn hiểu rõ tấm lòng ngay chính của ông và nói điều đó khi ông vừa đến gặp Chúa ông liền nhận ra Ngài là Đấng ông hằng mong đợi, nay mới được ở gần bên.Thực sự chính Chúa đã để ý đến ông, biết ông và yêu ông trước. Chúa chọn gọi những kẻ Chúa muốn. Ơn gọi kitô hữu của chúng ta không do chúng ta chọn trước mà là hồng ân Chúa ban cách nhưng không. Từng bước theo thời gian, con nhận ra và đáp lại một ân huệ lớn lao. Đó là phần phúc cho chúng ta, vì khi tin vào Chúa sẽ thấy được các sự lạ lùng Chúa làm, thấy được vinh quang của Chúa. “ Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa.”(Ga1,50b)

Nathanaen đã được biết Chúa Giêsu và được Ngài kêu gọi nhờ sự giới thiệu của Philipphê. Tôi cũng được biết Chúa và được Ngài gọi nhờ sự giới thiệu của nhiều người. Tôi nguyện sẽ giới thiệu Chúa cho những anh chị em khác của tôi nơi môi trường sống hằng ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin Chúa củng cố niềm tin nơi con như Chúa đã củng cố cho ông Nathanaen để con thuộc trọn về Chúa. Chúa đến và sống giữa nhân loại để loan báo Tin Mừng là chính Chúa, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ. Xin cho con biết hăng say bền chí loan báo Tin Mừng này cho anh chị em con.

1. Làm mới lại ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng trong ơn gọi Foyer de Charité

Kỷ niệm ngày tuyên hứa là kỷ niệm ngày thánh hiến.[1] Thánh hiến có nghĩa là thuộc về Đấng Thánh là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn từng người một, đích danh, để thuộc về Ngài. Và mỗi người chúng ta đã tự do đáp lại. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta cần làm mới lại sự thánh hiến này.

Có những dịp đặc biệt để làm mới lại ơn gọi thánh hiến, nhưng phải nói rằng, để sống ơn gọi thuộc về Thiên Chúa, thì người được gọi phải làm cho ơn gọi trở nên mới mẻ từng ngày, có nghĩa là phải thưa “xin vâng” mọi ngày, trong mỗi công việc, mỗi cơ hội diễn ra trong đời sống. Khi nào không làm cho ơn gọi trở nên hiện sinh thì ơn gọi đang “cũ mốc” đi, và đánh mất ý nghĩa thực sự của ơn gọi!

Thánh hiến là tác động của Thiên Chúa, còn hiến dâng là hành vị đáp trả của con người.

Mọi ơn gọi kitô giáo đều mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng, nhưng mỗi ơn gọi lại mang thêm những ý nghĩa đặc thù theo đặc sủng sáng lập. Vậy ơn gọi Foyer de Charité mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng nào?

2. Thánh hiến-hiến dâng mang ý nghĩa toàn bộ sự hiện diện, toàn thể cuộc hiện sinh

Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp ơn gọi năm nay (2025) về sự hiến dâng toàn bộ đời sống/ cuộc sống.[2] Sự hiến dâng không “ngồi chờ” để thể hiện vào lúc ai đó đòi giết mình, nhưng hiến dâng toàn bộ cuộc sống, toàn bộ cuộc hiện sinh.

Sự thánh hiến-hiến dâng của chị Marthe khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ. Năm 16 tuổi (1918), cô Marthe té ngã trong nhà bếp, cô ở trong tình trạng “lơ mơ” (được gọi là “un coma mystique”, vì có Thiên Chúa can thiệp), phải nằm giường một thời gian. Lúc này Đức Trinh Nữ hiện ra với cô: “Tôi đã thấy Đức Trinh Nữ”. Tháng ba (hoặc tháng tư hoặc tháng năm?) năm 1921, khi có thể đứng dậy được, thì “cô không còn là mình như trước đó nữa”.[3] Mùa Xuân năm 1922, lúc 20 tuổi, cô đọc được dòng chữ sau trong một cuốn sách đạo đức cũ: “Tại sao con tìm kiếm nghỉ ngơi, bởi vì con được dựng nên để chiến đấu mà? Tại sao con tìm kiếm hạnh phúc, bởi vì con được dựng nên cho đau khổ mà?”[4]. Cô Marthe nghe thúc đẩy trong lòng: “Đau khổ dành cho con”. Rồi cô đọc tiếp: “Phải trao hiến cho Thiên Chúa tất cả”. Ba năm nằm giường bệnh, đau đớn về tinh thần và thể xác cùng với sự thinh lặng và nhất là cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ đã đưa đến cho cô một trải nghiệm mới. Cô Marthe liền quỳ gối xuống và nói lời xin vâng.[5]

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài đã yêu cầu tất cả nơi nữ tỳ bé nhỏ của Ngài: vậy xin hãy lấy và đón nhận tất cả.

Ngày ấy, con đã đặt tất cả nơi Ngài, không giữ lại gì và không lấy lại.

Xin hãy nhận lấy trí khôn của con và dùng nó cho vinh quang của Ngài.

Hãy nhận lấy tất cả ý muốn của con…[7]

Hãy nhận lấy thân xác con, các giác quan, trí tuệ con, tất cả những khả năng, con tim và tất cả tình cảm của con.

Hãy nhận lấy hiến lễ mà trong thinh lặng con dâng Chúa từng ngày và mọi thời khắc…

Hãy nhận lấy và thánh hoá mọi lời nói, mọi hoạt động, mọi khát vọng của con.

Cần phải nhận ra rằng việc dâng hiến mạng sống đòi hỏi một sự đáp trả quảng đại và trung thành. Hãy nhìn các vị thánh và chân phước trẻ đã vui mừng đáp lại tiếng gọi của Chúa… Mỗi người trong số các ngài đã sống ơn gọi của mình như một con đường dẫn đến hạnh phúc trọn vẹn, trong mối tương quan với Chúa Giêsu hằng sống (Sứ điệp, 2)

Người được gọi cảm nhận mình được yêu thương:

Thiên Chúa muốn đánh thức nơi mỗi người ý thức được yêu thương, được kêu gọi và được sai đi như một người lữ hành hy vọng.” (Sứ điệp, 1)[8]

3. Sự thánh hiến và hiến dâng mang ý nghĩa tương tác liên vị chứ không phải là để làm việc 

Mọi ơn gọi được cảm nhận sâu xa trong tâm hồn đều nảy sinh sự đáp trả như một động lực nội tâm hướng tới tình yêu và sự phục vụ, như nguồn hy vọng và bác ái chứ không phải như một cuộc tìm kiếm sự khẳng định bản thân (Sứ điệp, 2)

Nếu ơn gọi đích thực có hướng đi về với tha nhân thì cũng có thể nói ngược lại, nếu không thể hiện được tính hướng tha trong đời sống ơn gọi thì có nghĩa là, hoặc không có ơn gọi, hoặc đã hiểu sai về ơn gọi!

Chị Marthe “sống” đau khổ do bệnh tật của mình trong một ý thức về tình yêu rất rõ ràng.

Lạy Đấng Yêu Dấu của con, con chỉ muốn một mình Ngài mà thôi… Và vì tình yêu dành cho Ngài, con từ bỏ tất cả…[9]

Việc được chia sẻ những dấu thánh được Chị coi như cách để sống tình yêu cách mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu Kitô. Chị cũng coi đó là cơ hội để cầu nguyện cho tha nhân, nhất là những tội nhân.

Chị không có sức khoẻ để làm việc sinh ra lợi nhuận hay để cáng đáng những công việc trong cộng đoàn, nhưng trên giường bệnh, Chị dâng chính bệnh tật của mình để cầu nguyện cho người khác. Chị sống đức ái bằng sự đón tiếp với lòng yêu mến. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và đời sống tâm linh sâu sắc của Chị thực sự mang lại lợi ích cho rất nhiều người đến với Chị.

“Chúa Giêsu đã yêu tôi đến nỗi chịu đau khổ và chết trên thập giá. Tôi cũng muốn yêu Ngài bằng cách hiến dâng mọi đau khổ của mình cho Ngài.”

“Yêu thương có nghĩa là quên đi bản thân mình để nghĩ đến người khác, để phục vụ họ, để cầu nguyện cho họ, để mang lại cho họ niềm vui và sự bình an.”

“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám hiến mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu thực sự không phải là tìm kiếm hạnh phúc riêng mình, mà là dám cho đi, dám hy sinh.”

“Chỉ có tình yêu mới làm cho tâm hồn thực sự hạnh phúc. Một trái tim biết yêu thương là một trái tim luôn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.”

Gợi ý suy tư

  1. Hãy nhận diện lối sống “ơn gọi ngày lễ” (dịp tuyên hứa, kỷ niệm tuyên hứa hay một dịp lễ gì đó), sống ơn gọi “khi có khách”; mà không phải là sống ơn gọi hàng ngày, sống ơn gọi nơi những điều giản dị, sống ơn gọi với những anh chị em trong cộng đoàn sống với mình mỗi ngày.
  2. Chọn lựa “Bước đi cùng nhau” của 3 FVN giúp chúng ta thế nào để sống ơn gọi đúng nghĩa?

[1] Nhớ lại ngày thánh hiến cũng mang ý nghĩa tương tự.

[2] “Pellegrini di speranza: il dono della vita/ Pèlerins d’espérance: le don de la vie” được chuyển sang tiếng Việt là: “Những người hành hương hy vọng: dâng hiến mạng sống” (Tý Linh chuyển ngữ. https://xuanbichvietnam.net/); hoặc “Những người hành hương hy vọng: quà tặng sự sống” (https://www.vaticannews.va/). “Mạng sống” nhấn mạnh thái độ sẵn sàng chết cho. “Sự sống” lưu tâm đến cuộc hiện sinh. Nội dung sứ điệp lưu tâm đến nghĩa thứ hai này.

[3] Raymond Peyret, Petite vie de Marthe Robin. Le secret de Marthe, éd. Peuple Libre, Desclée de Brouwer, 1988, tr.36.

[4] Xem Nhật ký của Marthe Robin ngày 14/09/1930.

[5] Raymond Peyret, tr. 37-38.

[6] Raymond Peyret, tr.39-41.

[7] Chị Marthe từ bỏ ý muốn xin được chữa lành bệnh, xin được chữa lành để theo ơn gọi dòng nữ Cát Minh như “người chị yêu dấu” Têrêsa Chúa Giêsu Hài Đồng.

[8] Phanxicô, sứ điệp Ngày Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, 2025.

[9] Raymond Peyret, tr.39.

Dẫn nhập

          Tựa đề “chết – sống” mà không phải là “sống – chết”, tại sao lại vậy? Đoạn Tin Mừng Gio-an 11,1-54 khởi đầu bằng cái chết của La-da-rô (11,14) và kết thúc bằng việc Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Bầu khí tang tóc, khóc thương bao trùm đoạn văn. Trong khi sự kiện Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại chỉ được trình bày qua mấy chữ ngắn ngủi (11,43). Bản văn nhấn mạnh đề tài “chết” nên được đặt trước từ “sống”. Vả lại, “sự chết” được đặt trước thì phù hợp với quy luật “sự sống” như Đức Giê-su cho biết ở 12,24: “A-men, a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hạt.” Đoạn văn 11,1-54 đặt ra cho độc giả ba câu hỏi sau:

          Thứ nhất: Tại sao Đức Giê-su không đến sớm hơn để cứu La-da-rô? Quyết định ở lại thêm hai ngày và để La-da-rô chết liệu có đi ngược lại với tình thương của Người dành cho gia đình này không? Khi Đức Giê-su nói: “bệnh này không đến nỗi chết” (11,4) nghĩa là có thể cứu, tại sao lại không cứu?

          Thứ hai: Tại sao Đức Giê-su lại làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính anh ấy lại chết vì sự sống lại của mình? Người thuật chuyện cho biết ở 12,10-11: “10 Các thượng tế quyết định giết cả La-da-rô, 11 vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ đi và tin vào Đức Giê-su.”

          Thứ ba: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại mà không làm cho người tin và thân nhân người tin được sống lại? Phải chăng Đức Giê-su ưu đãi gia đình chị em La-da-rô hơn các môn đệ, khi họ phải đối diện với bách hại?

          Ba câu hỏi trên nảy sinh từ bản văn, nên chính bản văn sẽ đưa ra câu trả lời. Để tìm giải đáp cho ba câu hỏi trên bài viết trình bày hai mục: (I) bản văn, bối cảnh và cấu trúc 11,1-54; (II) ý nghĩa “chết và sống” của La-da-rô, của Đức Giê-su và của người tin.

  1. Bối cảnh và cấu trúc 11,1-54

          Kết thúc trình thuật với việc gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46) là chưa đầy đủ ý nghĩa mặc khải trong ch. 11. Cần nối kết với đoạn văn tiếp theo (11,47-54) để làm lộ ra điều nghịch lý: người có khả năng làm cho người khác sống lại thì sắp phải chết. Nói cách khác, người có quyền trên sự chết lại chọn con đường “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (10,11). Để chuẩn bị phân tích đoạn văn dài 11,1-54, phần sau trình bày ba điểm: (1) bản văn, (2) bối cảnh và (3) cấu trúc.

  1. Bản văn

          Câu chuyện về cái chết của La-da-rô và quyết định giết Đức Giê-su (Ga 11,1-54) được thuật lại như sau:

                11,1 Có một người bệnh là La-da-rô ở Bê-ta-ni-a, làng của Ma-ri-a và Mác-ta, chị của cô ấy. 2 Ma-ri-a là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lau chân Người bằng tóc của mình. Em của cô ấy là La-da-rô bị bệnh. 3 Vậy các chị sai người đến nói với Người: “Thưa Thầy, này người Thầy thương mến bị bệnh.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi chết nhưng vì vinh quang của Thiên Chúa, để qua đó Con Thiên Chúa được tôn vinh.” 5 Đức Giê-su yêu mến Mác-ta, em cô ấy và La-da-rô. 6 Tuy nhiên, sau khi nghe rằng anh ấy bệnh, Người còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7 Sau điều đó, Người nói với các môn đệ: “Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.” 8 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” 9 Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.” 11 Người đã nói những điều ấy, và sau đó, Người nói với các ông: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy.” 12 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc, anh ấy sẽ được cứu.” 13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh ta, nhưng họ tưởng rằng Người nói về giấc ngủ thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ ràng với các ông: “La-da-rô đã chết, 15 Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó. Nhưng chúng ta cùng đi đến với anh ấy.” 16 Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”

17 Khi đến nơi, Đức Giê-su nhận thấy anh ấy đã ở trong trong mồ bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng 15 dặm (2,8 km). 19 Nhiều người trong những người Do Thái đến với Mác-ta và Ma-ri-a để an ủi các cô về người em. 20 Vậy khi Mác-ta nghe rằng Đức Giê-su đến, cô ấy ra gặp Người. Còn Ma-ri-a ngồi ở nhà. 21 Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 [Nhưng] bây giờ con biết rằng: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Em chị sẽ sống lại.” 24 Mác-ta nói với Người: “Con biết rằng em con sẽ sống lại, trong sự sống lại vào ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết. Chị có tin điều đó không?” 27 Chị ấy nói với Người: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin rằng chính Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

28 Nói xong điều đó, cô ấy đi và gọi Ma-ri-a, em của cô. Cô ấy nói nhỏ: “Thầy đến rồi và Thầy gọi em.” 29 Nghe vậy, Ma-ri-a  vội đứng lên đến với Người. 30 Lúc đó, Đức Giê-su chưa vào làng, nhưng Người vẫn ở chỗ Mác-ta đã gặp Người. 31 Vậy những người Do Thái đang ở với Ma-ri-a trong nhà và chia buồn với cô ấy, thấy Ma-ri-a vội vã đứng dậy đi ra, họ đi theo cô ấy, vì tưởng cô ấy đi ra mộ để khóc ở đó. 32 Khi Ma-ri-a đến gần Đức Giê-su, vừa thấy Người, cô ấy liền phủ phục dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” 33 Khi Đức Giê-su thấy cô ấy khóc, và những người Do Thái đi với cô ấy cũng khóc, Người thổn thức trong tâm trí và xao xuyến. 34 Người nói: “Các người đặt anh ấy ở đâu?” Họ nói với Người: “Thưa Thầy, hãy đến và hãy xem.” 35 Đức Giê-su khóc. 36 Vậy những người Do Thái nói: “Xem kìa! Ông ta thương anh ấy biết mấy.” 37 Nhưng vài người trong nhóm họ nói: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?”

38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Đó là một cái hang và có phiến đá đậy lại. 39 Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Mác-ta, chị người chết, nói với Người: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày.” 40 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Vậy họ đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã lắng nghe Con. 42 Phần Con, Con biết rằng: Cha hằng lắng nghe Con, nhưng vì đám đông đứng quanh đây nên Con đã nói, để họ tin rằng chính Cha đã sai Con.” 43 Nói xong điều đó, Người kêu lên một tiếng lớn: “La-da-rô, hãy ra ngoài.” 44 Người chết liền đi ra, chân, tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su nói với họ: “Hãy cởi ra cho anh ấy và hãy để anh ấy đi.” 45 Nhiều người trong những người Do Thái – những người đến với Ma-ri-a – thấy những gì Người làm, đã tin vào Người. 46 Nhưng vài người trong nhóm họ đến với những người Pha-ri-sêu và nói cho họ những gì Đức Giê-su đã làm.

47 Vậy các thượng tế và những người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: “Chúng ta làm gì đây vì người này làm nhiều dấu lạ? 48 Nếu chúng ta cứ để Ông ấy như thế tất cả sẽ tin vào Ông ấy, và người Rô-ma sẽ đến, họ sẽ huỷ diệt nơi thánh và dân tộc chúng ta.” 49 Một người trong số họ là Cai-pha, đang là thượng tế năm ấy, nói với họ: “Các ông không biết gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho các ông là một người chết cho dân và toàn thể dân tộc không bị tiêu diệt.” 51 Điều đó, ông ấy không tự mình nói ra, nhưng vì đang là thượng tế năm ấy, ông ấy tiên báo rằng Đức Giê-su sắp phải chết cho dân tộc, 52 và không chỉ cho dân tộc, nhưng còn để con cái Thiên Chúa đang tản mác quy tụ về thành một. 53 Vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người. 54 Vậy Đức Giê-su không đi lại công khai giữa những người Do Thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang mạc, vào một thành gọi là Ép-ra-im, và Người ở lại đó với các môn đệ.

  1. Bối cảnh

          Trong Tin Mừng, sứ vụ Đức Giê-su được trình bày trong khung cảnh một ngày làm việc. Bình minh ở ch. 1, khi ánh sáng bắt đầu chiếu rọi vào thế gian: “Người là ánh sáng thật, chiếu soi mọi người, đến trong thế gian” (1,9). Giờ ngọ ở ch. 8 và ch. 9 khi Đức Giê-su khẳng định Người là ánh sáng của thế gian. Ngày làm việc xế chiều với ch. 11, vì cái chết đã đến gần, Thượng Hội Đồng đã quyết định giết Đức Giê-su (11,53). Người kết thúc sứ vụ ở ch. 12 và mặc khải về ý nghĩa sự chết của Người cho các môn đệ trong các ch. 13–17. Ch. 18–19 là đêm tối, người ta đến bắt Đức Giê-su vào ban đêm và Người hoàn tất cuộc đời trên thập giá. Đoạn văn 11,1-54 là một mắt xích trong “ngày” sứ vụ của Đức Giê-su. Từ ch. 11, Người không còn tranh luận trực tiếp với những kẻ chống đối nữa (tranh luận kết thúc ở cuối ch. 10).

  1. Cấu trúc

          Tìm hiểu cấu trúc giúp khảo sát bản văn trước khi phân tích. Dựa vào yếu tố nhân vật và nơi chốn, đoạn văn 11,1-54 có cấu trúc đồng tâm A, B, C, B’, A’:

  1. 11,1-6 : Dẫn nhập. Hoàn cảnh và cách giải quyết của Đức Giê-su ở ngoài Giu-đê
  2. 11,7-16 : Đức Giê-su ở lại Giu-đê, Người bị đe doạ ném đá
  3. 11,17-46 : Đức Giê-su ở Bê-ta-ni-a, Người là sự sống lại và là sự                              sống. Người gọi La-da-rô ra khỏi mồ

          B’ : 11,47-53 : Họp Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su

A’. 11,54 : Kết thúc. Đức Giê-su vào trong hoang địa

Cấu trúc Ga 11,1-54

          Phần A. 11,1-6 trình bày hoàn cảnh ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Cách giải quyết của hai chị em là sai người đi báo cho Đức Giê-su biết. Cách giải quyết của Đức Giê-su là ở lại thêm hai ngày sau khi nghe tin La-da-rô bị bệnh. Lúc này Đức Giê-su đang ở ngoài Giu-đê. Phần mở đầu (A. 11,1-6) song song với phần kết (A’. 11,54), Đức Giê-su rời khỏi đó đi vào vùng gần hoang địa. Phần B. 11,7-16 là đối thoại giữa Đức Giê-su và các môn đệ về việc La-da-rô chết. Đức Giê-su quyết định trở lại Bê-ta-ni-a trong bối cảnh Người đang bị những người Do Thái tìm ném đá (11,8). Tô-ma động viên các đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Như thế, phần B trình bày hai ý tưởng song song: La-da-rô đã chết còn Đức Giê-su đang bị đe doạ giết chết.  Phần B (11,7-16) song song với B’ (11,47-53) nói về việc Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su. Phần trọng tâm của cấu trúc C. 11,17-46 là lúc Đức Giê-su ở Bê-ta-ni-a. Phần này có hai chi tiết quan trọng: (a) lời mặc khải của Đức Giê-su ở 11,25-26 được minh hoạ bằng (b) dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43).

  1. Ý nghĩa “chết và sống”

          Bản văn 11,1-54 nói về “chết và sống” của La-da-rô nên được trình bày trước. Kế đến bản văn cũng cho biết Đức Giê-su đang bị đe doạ ném đá và Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su nên “chết và sống” của Người được trình bày trong điểm tiếp theo. Cuối cùng tổng hợp hai điểm trên để nói về “chết và sống” của người tin.

  1. “Chết và sống” của La-da-rô

          Trong Tin Mừng, nhân vật La-da-rô chỉ xuất hiện ở đoạn văn 11,1-54 và đầu ch. 12 (12,1-11). Người thuật chuyện kể về La-da-rô, nhưng chính La-da-rô lại không hề lên tiếng trong bản văn, anh ấy không đối thoại trực tiếp hay gián tiếp với bất kỳ ai. Anh hiện diện trong bản văn như lời chất vấn dành cho các nhân vật khác về ý nghĩa “sự chết” và “sự sống”. Những gì được kể lại liên quan đến La-da-rô trong Ga 11–12 là “bị bệnh” (11,1), “chết” (11,14), “sống lại” (11,43), “ăn” (12,2), rồi lại chuẩn bị “chết” (12,10). Vậy “chết và sống” của anh ấy có ý nghĩa gì? Ba điểm sau bàn về sự hiện diện im lặng của anh ấy trong bản văn: (1) các nhân vật nói về cái chết của La-da-rô; (2) anh ấy sống lại để rồi chết; (3) nguyên lý của Đức Giê-su: “chết” để “sống”.

          + La-da-rô không lên tiếng nhưng lại hiện diện trong suốt đoạn văn 11,1-54. Ý tưởng La-da-rô sẽ chết được nhắc tới ngay từ phần dẫn nhập câu chuyện. Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng…” (11,4). Từ “nhưng” báo trước anh ấy sẽ chết. Trong phần tiếp theo câu chuyện, cái chết của La-da-rô trở thành đề tài để các nhân vật nói về anh ấy hay nói với nhau về sự chết. Bản văn dành phần quan trọng để trình bày cảm nhận của người sống (Đức Giê-su, Mác-ta, Ma-ri-a, những người Do Thái, đám đông) trước cái chết của La-da-rô.

          +  Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43), nhưng sự sống lại của anh ta chỉ là ánh sáng loé lên trong đêm tối. Quả thế, việc La-da-rô chết được bàn đến trong 42 câu (11,1-42), trong khi dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ chỉ mô tả trong 2 câu (11,43-44). Hơn nữa, La-da-rô sống lại kéo theo hai cái chết khác. Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,53); và các thượng tế quyết định giết cả La-da-rô, vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su (12,10-11). Vậy Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính Người và La-da-rô phải đối diện với cái chết. La-da-rô chết, sống lại, để rồi lại chết vì sự sống lại của mình. Nhân vật La-da-rô xuất hiện với cái chết thứ nhất vì bệnh, và kết thúc bằng cái chết thứ hai vì quyết định của các thượng tế.

          + Theo mạch văn, ch. 11 nhấn mạnh cái chết thứ nhất (chết vì bệnh) của La-da-rô (11,1-42) và ch. 12 nói đến cái chết thứ hai của anh (12,10-11). “Sự chết” được đề cao vì nó phù hợp với nguyên lý “chết để sống” mà Đức Giê-su đề ra ở 12,24-25: “24 A-men, a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hạt. 25 Ai yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình trong thế gian này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Nguyên lý “chết đi để sinh nhiều hạt” được áp dụng trước tiên cho Đức Giê-su, Người sẽ chết vì sự thù ghét của thế gian, nhưng Người sẽ chiến thắng: qua biến cố thập giá, Đức Giê-su đi về với Cha, Người được tôn vinh.

          Quả thật, câu chuyện La-da-rô để lại nhiều câu hỏi cho độc giả: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính vì sự sống lại đó, anh ấy lại phải chết? La-da-rô ra khỏi mồ là dấu lạ lớn lao, nhưng để làm gì? Dấu lạ này nói về điều gì và cho ai?. Vì thế, chúng ta cần phân tích về “chết và sống” của Đức Giê-su để soi sáng những câu hỏi trên.

  1. “Chết và sống” của Đức Giê-su

          Từ ch. 11, Đức Giê-su không còn tranh luận trực tiếp với những kẻ chống đối Người nữa. Trong các ch. 11–12, Đức Giê-su bắt đầu mặc khải ý nghĩa sự chết và sự sống lại của Người. Trong bối cảnh này, phần sau chúng ta sẽ phân tích ba điểm: (1) La-da-rô đã chết, còn Đức Giê-su, Người đang bị đe doạ giết chết; (2) La-da-rô sống lại dẫn đến quyết định giết Đức Giê-su; (3) chính Đức Giê-su là sự sống.

          Đầu tiên, ta thấy ở đầu ch. 11, La-da-rô đã chết (11,14), còn Đức Giê-su đang bị đe đọa giết chết. Các môn đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” (11,8). Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã bị bách hại từ ch. 5 (5,18). Việc những kẻ chống đối tìm bắt Người được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các ch. 7; 8; 10. Đối với các môn đệ, trở lại Bê-ta-ni-a đồng nghĩa với “đi để chịu chết”, như Tô-ma đã nói với các bạn đồng môn ở 11,16: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”

          Tiếp đến, sau dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Điều trớ trêu là người làm cho kẻ chết sống lại thì sắp phải chết. Đức Giê-su có quyền hành trên sự chết nhưng chính Người không tránh khỏi cái chết. Quyết định của Thượng Hội Đồng (11,53) là bước ngoặt trong Tin Mừng. Trước đây những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu tìm cách ném đá và bắt Đức Giê-su nhưng chưa phải là quyết định chính thức của giới lãnh đạo Do Thái. Với quyết định này, Đức Giê-su không tránh khỏi cái chết. Đoạn văn 11,1-54 ở vào cuối sứ vụ Đức Giê-su, cái chết của La-da-rô gợi đến cái chết của Người sắp xảy ra.

          Thứ ba, đoạn văn 11,1-54 không chỉ nói về sự chết của Đức Giê-su mà còn mặc khải về sự sống lại của Người. Người nói với Mác-ta ở 11,25: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.” Nói đến “sống lại” đã hàm ẩn sự chết, nhưng cái chết không nắm giữ được Người, Người sẽ sống lại vì chính Người là sự sống lại, như Người đã nói với những người Do Thái ở 10,18: “Không ai lấy mạng sống Tôi khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.” Để minh chứng cho điều này, Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Việc La-da-rô sống lại báo trước Đức Giê-su sẽ sống lại. Nói cách khác, qua “chết và sống” của La-da-rô, Đức Giê-su nói về “chết và sống” của chính Người. Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ, nghĩa là Đức Giê-su không sống lại theo kiểu như La-da-rô: sống lại về thể lý để rồi lại chết. Nhưng, sự sống lại của Đức Giê-su là sự sống mới, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Đó là sự sống của Thiên Chúa. Người về với Cha, đồng thời ở trong các môn đệ, như Người đã nói ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.”

          Tóm lại, “chết và sống” của Đức Giê-su đan vào nhau. Người là sự sống lại và là sự sống, nhưng lại sắp phải chết. Người làm cho La-da-rô trỗi dậy sau khi chết bốn ngày, nhưng chính Người không tránh khỏi cái chết. Đề tài “chết và sống” của La-da-rô nói lên ý nghĩa “chết và sống” của Đức Giê-su. Hơn nữa, đoạn văn 11,1-54 không chỉ liên quan đến La-da-rô và Đức Giê-su, mà còn là mặckhải quan trọng về “chết và sống” của người tin.

  1. “Chết và sống” của người tin

          Đề tài “chết và sống” của người tin có ý nghĩa thiết thực vì liên quan đến cuộc đời độc giả. Ý nghĩa câu chuyện được trình bày qua sáu điểm: (1) đối với La-da-rô, chết là điều tự nhiên của thân phận làm người; (2) đối với người tin, chết là ngủ; (3) bế tắc và giấc mơ của con người trước cái chết; (4) qua nhân vật Mác-ta, độc giả được mời gọi đi xa hơn niềm tin tuyền thống; (5) Đức Giê-su làm điều không ai dám nghĩ tới để mời gọi độc giả tin; (6) như các môn đệ, người tin được mời gọi can đảm đón nhận cái chết trong hoàn cảnh bị bách hại vì tin vào Đức Giê-su.

          (1) La-da-rô chết vì bệnh là cái chết bình thường của thân phận con người. Đức Giê-su không can thiệp vào tiến trình sống và chết thể lý. Sứ vụ của Người không phải là cứu con người khỏi chết thể lý. Việc Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô là lời mời gọi con người chấp nhận sự chết thể lý như là điều tất yếu của thân phận làm người. Dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ không đề cao sự sống thể lý, vì La-da-rô sống lại để rồi chết. Hơn nữa, chính Đức Giê-su cũng không đi ngược lại tiến trình sống và chết. Người sống trọn vẹn thân phận làm người. Người đón nhận cái chết mà những kẻ chống đối áp đặt cho Người.

          (2) Khi nói với các môn đệ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy” (11,11), Đức Giê-su dùng từ “ngủ” để nói về sự chết thể lý. La-da-rô đã chết mà Đức Giê-su lại nói là ngủ. Phải chăng đối với những người được gọi là “bạn của Đức Giê-su” thì chết về thể lý chỉ là giấc ngủ? Câu này giúp người đọc hiểu lời Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,25: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống.” Người tin vào Đức Giê-su thì chết về thể lý không còn gọi là chết nữa mà là “giấc ngủ”. Nhưng các môn đệ không hiểu, Mác-ta cũng không hiểu lời Đức Giê-su. Phải chờ đến lúc La-da-rô ra khỏi mồ thì các nhân vật trong câu chuyện và nhất là độc giả mới có đủ các yếu tố để hiểu những lời Đức Giê-su đã nói.

          (3) Câu chuyện cho thấy cái chết của La-da-rô là một mất mát không thể bù đắp. Sự chết là bức tường ngăn cách không thể vượt qua. Nơi ở của người chết là phần mộ, Mác-ta đã từ chối mở phiến đá vì tử thi đã “nặng mùi” sau bốn ngày (11,39). Sau khi La-da-rô chết, những gì còn lại là nỗi đau mất mát. Những người Do Thái đến để an ủi (11,9) và chia buồn (11,31). Trước sự chết, con người chỉ còn biết khóc thương. Phiến đá che mộ nói lên sự chia ly, ngăn cách giữa người sống và người chết. Thái độ của Mác-ta và Ma-ri-a trong câu chuyện là hai thái độ khác nhau của con người trước sự chết. Trong đoạn văn, không thấy Mác-ta khóc, nhưng Ma-ri-a khóc. Mác-ta trao đổi và tuyên xưng đức tin với Đức Giê-su, còn Ma-ri-a thì không. Mác-ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Còn Ma-ri-a diễn tả nỗi đau mất mát trước cái chết bằng nước mắt. Cả hai đều bất lực trước khoảng cách giữa sống và chết.

          Giấc mơ muôn thuở của con người là tránh khỏi cái chết. Khi La-da-rô chưa chết, hai chị em sai người đến báo cho Đức Giê-su, với hy vọng Người sẽ cứu cho La-da-rô khỏi chết. Khi La-da-rô đã chết rồi thì chỉ còn lại nuối tiếc. Cả hai chị em đều nói câu đầu tiên với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (11,21.32). Những người Do Thái cũng chỉ biết thốt lên: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?” (11,37). Họ nói về khả năng “làm cho La-da-rô khỏi chết”, còn bây giờ đã chết rồi, không ai dám nghĩ đến việc anh ta sẽ sống lại.

          (4) Đứng trước sự chết, con người tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Niềm tin truyền thống này được thể hiện qua trao đổi giữa Đức Giê-su và Mác-ta (11,21-27). Xem ra Mác-ta ở vào tư thế chủ động và xác tín niềm tin của mình. Khi Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại” (11,23), Mác-ta thưa: “Con biết rằng em con sẽ sống lại, trong sự sống lại vào ngày sau hết” (11,24). Độc giả biết là Mác-ta đã không hiểu đúng lời Đức Giê-su. Người muốn nói La-da-rô sẽ sống lại ngay bây giờ thì Mác-ta lại hiểu là sống lại trong ngày sau hết. Khi Đức Giê-su nói với chị ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin điều đó không?” (11,25-26), Mác-ta trả lời: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin rằng Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (11,27). Nhưng Mác-ta đã không hiểu ý nghĩa lời Đức Giê-su, vì khi Người nói với chị: “Đem phiến đá này đi” (11,39a), chị từ chối và nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày” (11,39b). Mác-ta không hề nghĩ là em chị sẽ sống lại ngay bây giờ.

          Khi Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,40: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (11,40), Người mời gọi Mác-ta và độc giả đi xa hơn niềm tin truyền thống. Độc giả nhận ra rằng lời tuyên xưng của Mác-ta về sự sống lại trong ngày sau hết (11,24) và về Đức Giê-su là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (11,27) cũng là tuyên xưng niềm tin của cộng đoàn Gio-an và của Ki-tô hữu. Tuy nhiên qua sự hiểu lầm của Mác-ta, bản văn dẫn người đọc đi xa hơn và hiểu đúng hơn mặc khải của Đức Giê-su về sự sống lại.

          (5) Đối diện với sự chết, Đức Giê-su đã làm điều không ai dám nghĩ tới: gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Dấu lạ này là niềm vui bất ngờ và lớn lao cho mọi người. Theo mạch văn, niềm tin của Mác-ta đã tiến thêm một bước dài sau khi thấy em cô ra khỏi mồ. Như thế, mục đích câu chuyện là mời gọi những người chứng kiến dấu lạ và độc giả tin vào lời Đức Giê-su ở 11,25-26a (trích dẫn trên đây). Nội dung niềm tin gồm hai khía cạnh: (1) Về đối tượng của lòng tin, đó là tin vào Đức Giê-su (11,45), tin rằng Chúa Cha đã sai Người (11,42), tin Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống (11,25), tin Người có quyền hành trên sự chết, dù sẽ chết nhưng Người sẽ sống lại. (2) Về phía người tin, ai tin vào Đức Giê-su thì không còn phải chết nữa vì đã có sự sống đời đời ngay bây giờ chứ không phải chờ đến ngày sau hết. Trước sự bế tắc của con người khi đối diện với sự chết, lời Đức Giê-su là niềm hy vọng lớn lao cho độc giả. bản văn cho thấy “chết và sống” của La-da-rô là dấu chỉ về “chết và sống” của người tin. Việc La-da-rô ra khỏi mồ không chỉ liên quan tới anh ấy, mà liên quan đến sự sống đích thực của mọi người.

          (6) Về phía các môn đệ, các ông sẽ cùng chịu chung số phận với Thầy. Các ông sẽ bị bách hại và bị đe doạ giết chết vì đã tin vào Đức Giê-su. Trong ch. 11, Tô-ma động viên các bạn đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Trước khi bước vào cuộc Thương khó, Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 16,2: “Họ sẽ làm cho anh em trở thành những người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” Đức Giê-su không cứu các môn đệ khỏi cái chết thể lý như La-da-rô. Vậy việc La-da-rô sống lại có ý nghĩa gì cho các môn đệ?

          Ngay đầu đoạn văn 11,1-54, Đức Giê-su hé mở ý nghĩa việc Người sắp làm. Người nói với các môn đệ ở 11,15: “Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó.” Mục đích của dấu lạ là “để anh em tin”. Tin ở đây không chỉ là tin vào sự sống lại trong ngày sau hết như Mác-ta, nhưng là tin vào sự sống đời đời ngay ở đời này (11,25-27). Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ trở thành sự khích lệ và động viên các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Dù bị bách hại đến chết, người môn đệ vẫn được sống. Chứng kiến La-da-rô ra khỏi mồ, người tin có thêm sức mạnh để sống quy luật hạt lúa mì gieo vào lòng đất: “chết” để “sống” (12,24). La-da-rô sống lại là bảo chứng để người tin dám hy sinh mạng sống mình để giữ sự sống đích thực như Đức Giê-su nói ở 12,25: “Ai yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình trong thế gian này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ là niềm vui thực sự cho người tin về “chết” (sự chết thể lý) và “sống” (sự sống đời đời). Bản văn mời gọi độc giả nhận ra quà tặng sự sống này trong hoàn cảnh bị bách hại vì niềm tin vào Đức Giê-su. Đồng thời dám sống trọn vẹn thân phận làm người, không thất vọng khi đối diện với cái chết thể lý của người thân và của chính mình, cái chết mà Đức Giê-su gọi là “giấc ngủ”.

Kết luận

          Bài viết đã phần nào trả lời ba câu hỏi lớn:

          Thứ nhất: Tại sao Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô? Người không đến cứu La-da-rô không phải vì không thương gia đình này, nhưng Người không muốn can thiệp vào quy luật sống, chết thể lý của thân phận con người. Đã là người thì không ai tránh khỏi cái chết. La-da-rô được sống lại về thể lý cũng không ra ngoài quy luật này, anh ấy sẽ lại chết. Đức Giê-su đã sống thân phận làm người, Người đã chết. Người là Con Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa là Cha của Người, nhưng Người cũng không tránh khỏi cái chết thể lý thì việc La-da-rô chết là chuyện bình thường của đời người. Việc Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô trở thành lời mời gọi mọi người can đảm sống thân phận làm người.

          Thứ hai: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại? Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ về sự chết và sống lại của Đức Giê-su. Trong biến cố Thương Khó, sau khi bị bắt và bị tra hỏi, Người không thể giải thích ý nghĩa cái chết của Người cho các môn đệ được nữa. Nên qua dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Đức Giê-su báo trước sự sống lại của Người. Đức Giê-su bày tỏ uy quyền của Người trên sự chết (sự chết của La-da-rô và của chính Người). Sự tôn vinh Thiên Chúa và tôn vinh Con Thiên Chúa ở 11,4.40 cần được nối kết với biến cố thập giá là lúc Đức Giê-su được tôn vinh.

          Sau cùng: Tại sao Đức Giê-su không làm cho người tin hay thân nhân của người tin sống lại như La-da-rô? Đức Giê-su chia sẻ với ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô (và qua đó với độc giả) thân phận phải chết của kiếp người. Thấy La-da-rô ra khỏi mồ là điều vượt quá mong ước của hai chị em Mác-ta, Ma-ri-a và những người chứng kiến. Hai cô chỉ mong cậu em khỏi chết vì bệnh, nhưng giải pháp của Đức Giê-su trước cái chết của La-da-rô đã giải quyết tận gốc rễ của sự chết. Đó là làm cho người tin sẽ “không bao giờ phải chết” (11,26).

          Quả thật, tình thương của Đức Giê-su không chỉ dành cho ba chị em ở Bê-ta-ni-a vào thời đó mà còn dành cho độc giả qua mọi thời đại. Ai tin thì không còn phải chết nữa. Điều độc đáo là mặc khải của Đức Giê-su đi xa hơn niềm tin truyền thống là: tin vào sự sống lại ngày sau hết. Nhưng, Đức Giê-su mời gọi “tin” vào sự sống đời đời ngay bây giờ. Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ về “chết và sống” của người tin. Trước bế tắc của sự chết, bản văn cho độc giả biết phải làm gì để được sống.

          Liệu độc giả có dám tin và sống lời Đức Giê-su ở 11,25-26a: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” chăng?

          (Dominique NGUYEN: Bài viết tham khảo từ các tài liệu học hỏi Kinh Thánh của các Giáo sư Kinh Thánh của Học Viện Đaminh Việt Nam)

Messenger Messenger
Google Map Google Map
Zalo Zalo
Gọi ngay Gọi ngay