TẠ ƠN KIM KHÁNH TUYÊN HỨA
Lm. JB. Phan Trịnh Long
Hôm nay, chúng ta quy tụ nhau nơi đây để chia sẻ niềm vui với 3 chị mừng kim khánh và một chị ngân khánh tận hiến cho Mẹ Maria trong ơn gọi Foyer Phú Dòng.
Có thể nói 50 năm hay 25 năm là một hành trình dài được đan kết với bao nhiêu cố gắng và vất vả, bao nhiêu thăng trầm và biến động, bao nhiêu gian khó và hân hoan; 50 năm hay 25 năm tuy có thể làm nhiều thứ phôi pha, song vẫn còn đó những kỷ niệm khó phai trong ký ức của mỗi con người, thời gian đó thật dài để ghi dấu ấn tình Chúa và tình người không thể phôi phai; 50 hay 25 năm, không chỉ được đo bằng khái niệm của thời gian, nhưng còn bằng những gì mà các chị gặt hái được.
Để rồi, nếu như có ai đó bảo rằng: “thời gian thấm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ ai đâu”, thì ngạn ngữ latinh lại bảo rằng: “Tuy bạn không giữ đước ngày hôm qua, nhưng bạn có cách để không làm mất nó”. Vậy con nghĩ, cái cách để không làm mất đi những tháng ngày qua, thì cần phải có thánh lễ tạ ơn ngày hôm nay.
Trọng kính Cha Cố Antôn, linh phụ Tu Hội Bác Ái Phú Dòng; Cha Giuse, linh phụ Foyer Cao Thái.
Kính thưa các thành viên của 3 Foyer Việt Nam, cùng với quý quan khách gần xa, cùng với quý bà con thân thuộc của các chị mừng lễ hôm nay.
Vì lý do đặc biệt về thời cuộc và lịch sử, trong khuôn khổ bài giảng này, cho phép con chỉ tập trung và chia sẻ về cuộc đời của 3 chị mừng kim khánh mà thôi, rồi mai mốt 25 năm nữa, nếu Chúa cho sống, con sẽ chia sẻ đề mừng Chị Ngân nhiều hơn. Chị Ngân có đồng ý không ạ? Vâng!
Thực ra, ít có cuộc đời xuôi chảy thẳng lối, mà trái lại đời người như dòng suối có ngàn vạn khúc quanh. Khi nhìn lại cuộc đời của 3 chị cao niên mừng kim khánh tận hiến hôm nay chúng ta thấy rõ điều đó.
Này nhé, xuất thân từ những gia đình nghèo vật chất nhưng lại giàu truyền thống đạo đức, Chị Ba thì ở Giáo xứ Dốc Mơ; Chị Thiên và Chị Tịnh thì ở Giáo xứ Võ Dõng. Khi lớn lên cả ba chị đều tham gia vào Hội Con Đức Mẹ, một hội đoàn rất đạo đức, có tinh thần hăng say phục vụ và siêng năng cầu nguyện.
Lúc bấy giờ, Cha Phaolô Võ Văn Bộ, Linh phụ tiên khởi của Foyer Bình Triệu thường xuyên tổ chức những khoá tĩnh tâm và chính Ngài cũng đi giảng tĩnh tâm ở nhiều nơi. Với tài giảng thuyết hùng hồn và ăn nói lợi khẩu, tiếng lành cứ thế đồn xa. Năm ấy, năm 1968, ba chị quyết tâm rủ nhau về Foyer Bình Triệu để cùng tham dự khoá tĩnh tâm. Để rồi, chính trong những ngày tĩnh tâm này, ba chị được đánh động, nhận ra tiếng Chúa thôi thúc mời gọi, ba chị quyết tâm dâng hiến đời mình cho Chúa trong ơn gọi Foyer.
Sau khi ở Cộng Đoàn Bình Triệu được 2 năm, đến năm 1970, ba Chị cùng với các anh chị em khác được sai đến phục vụ ở Cộng đoàn Đồng Lạc – Di Linh dưới sự hướng dẫn của Cha Guy de Reynies thuộc Hội Thừa Sai Paris. Năm năm sau, vào ngày 25/03/1975 ba Chị được tuyên hứa tận hiến đời mình cho Đức Mẹ.
Có một chi tiết đặc biệt để chúng ta thấy sự huyền nhiệm của ơn gọi: “Chúa chọn ai Chúa muốn và chọn lúc nào Ngài thích”. Chị Thiên bị viêm tai giữa gần như bị điếc, hầu như chẳng nghe thấy gì ngay từ tấm bé. Con nói điều này có đúng không hả chị Thiên? Đấy, Chị có nghe thấy gì đâu?
Vâng, bị điếc, bị nặng tai thì khó mà đi tu được! Nhưng đó là tiêu chuẩn của loài người còn Thiên Chúa thì không, Thiên Chúa luôn có lối đi riêng của Ngài như lời Ngài nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các Ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các Ngươi”. “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Và quả thật Chúa đã chọn Chị bất chấp những bất toàn khiếm khuyết của bản thân. Ngày ấy, cả 3 Chị đều được chọn để tuyên hứa với lời động viên, khích lệ từ Cha Reynies: “Chúng con cứ tin tưởng tận hiến cho Đức Mẹ, để Mẹ che chở giữ gìn”.
Sau khi 3 chị tuyên hứa để tận hiến đời mình cho Mẹ Maria, thì Cha Reynies bị trục xuất về nước, còn các chị bị bắt đi tù ở trại giam Gia Binh – Di Linh.
Người ta vẫn nói “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Làm sao kể ra hết được những tủi nhục, những vất vả mà các chị đã phải chịu trong suốt thời gian bị giam giữ cầm tù, bị quản thúc cách này cách khác. Thực ra, chỉ vì bảo vệ các Cha, các linh mục của Chúa, chỉ vì quen biết cha này cha kia mà phải bị cảnh tù tội như vậy.
Trong suốt thời gian 13 tháng tù đày, có những lúc thì bị người ta cùm chân, cùm tay, đeo gông biệt giam trong phòng kín chẳng được thấy ánh mặt trời; lâu lâu thì lại bị đe doạ, thấm vấn lấy cung; cơm ăn hàng ngày là những lát khoai lang, khoai mì phơi không đủ nắng ẩm mốc, kèm theo là mấy con cá cho heo ăn được nướng lên…
Sau hơn một năm ở trong vùng rừng sâu nước độc Di Linh ấy, tưởng người ta tha cho về, nào ngờ một lần nữa, các chị lại bị đưa lên xe bít bùng đưa đi, đưa đi đâu cũng chẳng biết, chỉ sau này hỏi ra mới hay, đó là trại Gia Chánh thuộc vùng dân tộc thiểu số người Tày. Nơi đây, các chị không còn bị giam cầm khổ cực, nghiêm ngặt như trước, vì hơn một năm qua, qua cách sống chứng nhân của người môn đệ, người ta đã tin mình, người ta đã có thiện cảm với mình, nên tại Gia Chánh này, người ta chỉ quản chế bằng cách cho ra ngoài lao động: làm cỏ, làm ruộng, trồng bắp, trồng đậu, trồng khoai, làm vệ sinh, quét dọn, nuôi heo, nuôi gà, chà bắp, chà đậu…
Bây giờ nhìn lại những tháng ngày đã qua, mọi người trong chúng ta và chính các chị tự hỏi nhau rằng? cái gì giúp cho mình có được một sức mạnh nội tâm và một sự kiên cường vững vàng đến như thế? Các chị nhận ra: À, ngoài tà áo Mẹ Maria che chở, yêu thương giữ gìn, thì chính đời sống cầu nguyện liên lỉ và việc được rước Mình Thánh Chúa hầu như hàng tuần. Nhưng câu hỏi đặt ra: Mình Thánh Chúa ở đâu mà rước trong cảnh lao tù như vậy?
Dạ đó là do: Có một Tu sĩ thuộc Dòng Mẹ Đấng Cứu Chuộc bị bắt cùng, và Thầy này được phân công đi chợ hằng ngày, nhân cơ hội đó, Thầy đã liên hệ với các Linh mục bên ngoài và khéo léo đựng Mình Thánh Chúa trong các bao diêm và đưa vào cho các Chị. Rồi các chị cùng nhau chia Mình Thánh Chúa cho mỗi người. Đúng là, Chúa luôn có cách để con cái của mình không bị đói khát nhưng luôn no thoả bằng Lương Thực Thần Lương của Ngài.
Trong thời gian này, có cán bộ nhà nước tận Hà Nội vào thăm, thấy các chị em bị bắt vô cớ, bị đối xử tệ bạc… vì vậy, họ đã ban lệnh tha cho về. Sau khi công bố và nhận được lệnh tha được ghi trên mảnh giấy gói bánh mì, các chị em chỉ kịp gói ghém những vật dụng, đặc biệt là những tượng ảnh và lên đường trở về gia đình. Tâm trạng lúc ấy cũng là tâm trạng của lời thánh vịnh 125 diễn tả: “Khi Chúa dẫn tù nhân Si-on trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng… Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam. Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.
Có thể nói, những hạt giống Tin Mừng mà các chị đã gieo trong tù đày suốt hơn 2 năm, đó chính là một đời sống chứng nhân của Người Môn Đệ. Khi được hỏi: Các chị có oán trách những người đã gông cùm chị, đã đối xử tệ bạc với các chị không? Một trong Ba chị trả lời: “Lúc đầu con cũng cảm thấy bực tức lắm, nhưng sau đó con cầu nguyện và nhận ra rằng: Chúa đã dùng họ để thanh luyện con, để tập cho con chấp nhận những gian khổ, có như thế, sau giải phóng con mới sống được cha ạ. Rồi, chính tập sách “Người Lữ Hành trên Đường Hy Vọng” của Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận” gợi hứng cho con. Con nhận ra rằng: Chẳng có ai là kẻ thù của con cả. Khi con bực mình với họ thì con lại cầu nguyện cho họ. Con vẫn cầu nguyện cho những người bắt bớ con. Và đó cũng là lý do con chọn cho mình câu khẩu hiệu của đời dâng hiến: “Tha nhân là quà tặng; vâng phục là bình an. Hiện nay, con sống tuổi già rất là hạnh phúc”.
Sau thời gian tù đày và quản thúc ấy, các chị được trở về gia đình riêng, nhưng tình chị em, nhưng ơn gọi sống đời cộng đoàn đã thôi thúc, các chị lại tìm đến với nhau quy tụ về một căn nhà của một người dân ở vùng Phương Lâm để cùng nâng đỡ nhau, sinh sống, lao động , cầu nguyện và làm việc bác ái.
Một năm sau, tức là vào năm 1978, các chị lại quy tụ về nơi đây, nơi mảnh đất Phú Dòng này. Nơi đây, Các Chị được Đức Cha Đaminh Nguyễn Văn Lãng, nguyên Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc và Cha Gioa Kim Nguyễn Định là Cha Sở Giáo Xứ Phú Dòng này động viên, giúp đỡ. Các chị đã cùng nhau mua một mảnh đất rộng 1600 m2 (một sào sáu), dựng một căn nhà cấp 4 tạm bợ để cùng nhau sống ơn gọi Foyer. Vạn sự khởi đầu nan, trong những ngày đầu sống ở đây, các chị đã gặp rất nhiều khó khăn từ chính quyền địa phương, đã từng bị những người vác súng tới hăm doạ đuổi đi. Cũng tại nơi đây, Đức Cha Giáo Phận đã cho phép đặt Mình Thánh Chúa trong phòng nguyện để các chị sớm tối cầu nguyện. Và Mình Thánh Chúa vẫn luôn là động lực, là sức mạnh đã giúp các Chị vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách.
12 năm sau, tức là năm 1990, Cha Antôn Trần Văn Bài được Đức Giám Mục Giáo Phận chính thức sai về đây làm Linh Phụ. Cha cùng với các chị em từng bước mua thêm đất đai, xây dựng cơ sở vật chất, để rồi chúng ta thấy Foyer Phú Dòng có được bộ mặt rộng lớn, khang trang, tiện nghi như hiện nay để có cơ hội đón khách tĩnh tâm tốt hơn.
Vâng, “Mỗi bước tiến là một lời cảm tạ, mỗi chặng đường là dấu chứng của tình yêu”. Hôm nay, 3 chị mừng kim khánh tuyên hứa cũng là dịp nhìn lại những chặng đường đã qua, đặc biệt nhìn lại tuổi đời của mỗi người.
Chúa ban cho 3 Chị năm nay đã là U90 – 80 cả rồi. Chị Ba năm nay 87 tuổi; Chị Tịnh 76; Chị Thiên 75. Đây là lứa tuổi mà 3 chị cần phải dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì trong thực tế có những người đã chết khi còn trong bụng mẹ. Lại có những người chết khi tuổi đời còn rất trẻ. Chẳng vì thế mà Đỗ Phủ đã nhận định: “nhân sinh thất thập cổ lai hy, người thọ 70 xưa nay hiếm”. Còn lời Thánh Vịnh thì bảo rằng: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi”. Như thế, 70 tuổi đã là hàng hiếm, phương chi lên hàng 80 thì lại càng quý hiếm hơn. Vì thế, đây quả là hồng phúc mà Chúa đã thương ban cách riêng cho Tu Hội Phú Dòng chúng con. Ơ, thế đứng trước hồng phúc Chúa ban như thế mà anh chị em lại không vỗ một tràng pháo tay để chúc mừng nhỉ?
Kính thưa cộng đoàn, sở dĩ chúng ta phải vỗ tay, phải chúc mừng là bởi vì, khi nói về người cao tuổi, Đức Thánh Cha Phanxicô trong sắc chỉ khai mạc Năm Thánh “Spes non Confundit” mới đây đã nói như thế này: “Những người cao tuổi xứng đáng có được những dấu chỉ của niềm hy vọng. Những người này thường trải qua cảm giác bị bỏ rơi. Cộng đồng Kitô giáo và xã hội dân sự có trách nhiệm trân trọng những người cao tuổi như là những kho báu, trân trọng kinh nghiệm sống, sự khôn ngoan và những đóng góp của họ. Tôi đặc biệt nghĩ đến các ông bà nội ngoại là những người đầy niềm tin và kinh nghiệm sống để trao lại cho thế hệ trẻ”.
Anh chị em có nghe thấy rõ không? Đức Thánh Cha Phanxicô gọi “Những người cao tuổi là những người đầy niềm tin, đầy kinh nghiệm sống và là những kho báu”. Nếu vậy thì cho con hỏi, hiện nay trong các Foyer Việt Nam chúng ta thì Foyer nào nhiều kho báu nhất ạ? Riêng Foyer Phú Dòng nhà chúng con có tới 4 kho báu. Còn các Foyer khác, xin hỏi Bình Triệu mấy ạ? Cao Thái bao nhiêu ạ?
Ô, nếu mà như vậy, thì các Foyer Việt Nam chúng ta thật là giàu có, chúng ta có nhiều kho tàng, nhiều kho báu trong chính cộng đoàn mình. Vậy, chả lẽ chúng ta lại quên vỗ tay à!
Thế thì khi sở hữu những kho báu như thế, chúng ta phải làm gì? Đức Thánh Cha nhắc nhở mỗi người, đặc biệt nhắc các thế hệ trẻ như thế này: “Mong sao những người cao tuổi được nâng đỡ với lòng biết ơn của các con, các cháu, những người tìm thấy nơi họ một chỗ dựa, niềm cảm thông và sự khích lệ”.
Và có một điểm con thấy rất là thích nơi Đức Thánh Cha, đó là Ngài không chỉ gọi các cụ cao tuổi là kho báu mà trong thông điệp Ngày Quốc tế Ông Bà và Người Cao Tuổi năm 2022, Ngài còn khẳng định thế này: “tuổi già là tuổi bước vào một cái mùa sinh sôi nảy nở nhiều hoa trái.”
Anh chị em thấy có lạ không? Tuổi già là tuổi khô héo. Vậy mà Đức Thánh Cha lại nói: “Tuổi già là tuổi bước vào một mùa sinh sôi nảy nở đầy hoa cái”. Thực ra, đây là điều không hề phi lý, bởi vì tư tưởng này đã được gợi hứng từ chính trong (Tv 92): “Người công chính vươn lên tựa cây dừa tươi tốt, lớn mạnh như hương bá ly băng, được trồng nơi nhà Chúa, mơn mởn giữa khuôn viên đề thánh Chúa ta. Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn”.
Thật vậy, trong Kinh Thánh, tuổi già mới là độ tuổi chín mùi của hy vọng. Bởi vì, phải sống đủ lâu đủ dài thì con người ta mới thấy được niềm hy vọng của mình nơi Thiên Chúa thành hiện thực. Chẳng hạn như, tổ phụ Áp-ra-ham, khi được Chúa gọi lên đường rời bỏ quê cha đất tổ khi đó đã là 75 tuổi. Rồi khi Isaác được sinh ra, năm đó Áp-ra-ham đã gần 100 tuổi. Đó là độ tuổi đủ lâu, đủ dài, đủ chín để Áp-ra-ham thấy được niềm hy vọng của mình vào lời hứa của Thiên Chúa thành hiện thực. Hay như Mose, vị thủ lãnh của dân chúa khi được gọi và trao ban sứ mạng dẫn đoàn dân của mình rời khỏi Ai Cập, băng qua biển đỏ để tiến về đất hứa, lúc đó Moses đã 80 tuổi. Đó là độ tuổi dày dạn kinh nghiệm được Thiên Chúa tin tưởng. Thế nên, phải đủ già, phải đủ chín muồi thì người ta mới thấy được giá trị của niềm hy vọng nơi Thiên Chúa thành hiện thực.
Hôm nay, quy tụ về đây tham dự thánh lễ tạ ơn của các chị, chúng ta thấy không trống, không kèn, cũng chẳng tưng bừng, tươi vui, nhộn nhịp như các lễ Tiên Khấn và Vĩnh Khấn, hay những lễ mở tay của các tân linh mục, nhưng nó mang một dáng vẻ thâm trầm của những nhân chứng Đức Tin và Lịch Sử. Tấm lưng của các chị mừng kim khánh hôm nay không còn thẳng thớm như ngày xưa, đôi chân của các chị cũng không còn nhanh nhẹn vững vàng mà phải được nâng đỡ từ những chiếc gậy hay những chiếc xe lăn; đôi vai của các chị đã có phần nghiêng ngả xiêu vẹo bởi những gánh nặng của cuộc đời; giọng nói đã nhễu nhão; răng đã rụng; đôi mắt đã mờ đục, mái tóc đã bạc màu theo thời gian năm tháng…, nhưng, nơi các chị vẫn bật lên một sức mạnh nội tâm, vẫn ngời sáng lên lòng trung tín và can đảm bởi vì “vàng thử lửa, gian nan thử sức”.
Vâng, sở dĩ như thế là bởi vì các chị đã được Chúa kêu gọi từ năm 18 đôi mươi, đến nay, sau 50 năm đi theo Chúa trên mọi nẻo đường, các chị lại cùng với nhau dâng lời tạ ơn Thiên Chúa nơi nhà nguyện thân thương này như lời bộc bạch của linh mục Trăng Thập Tự: “Ngày xưa Chúa gọi con đi, bây giờ Chúa bảo con quỳ xuống đây”. Con quỳ xuống đây để thân thưa với Chúa rằng:
Từ độ thanh xuân lạy Thiên Chúa
Ngài đã quyến rũ con, đưa con vào cuộc tình
Lòng kề lòng Chúa và con
Ôi ân huệ tình yêu tuyệt mỹ.
Lạy Chúa, năm mươi năm đời con dâng hiến Chúa
Năm mươi năm chuỗi ngày Hồng Ân
Giờ đây, con xin hết lòng cảm tạ ơn Chúa
Vì Ngài thương con như biển như trời
Vì Ngài thương con không bờ không bến
Chúa ơi! Con biết lấy gì mà đáp đền
Con biết lấy gì mà đền đáp Chúa suối đời con.
Cuộc đời con nay đã xế bóng
Lạy Chúa chớ bỏ con, con tin cậy vào Ngài
Trọn cuộc đời con vịnh ca
Kính dâng Ngài tình yêu tuyệt mỹ.
Vâng, mừng lễ 50 năm tuyên hứa của 3 chị, đúng ra con phải giảng 50 phút thì nó mới đáng đồng tiền bát gạo, thì nó mới thoả đáng, nhưng con lại sợ, nếu mà giảng 50 phút thì lát nữa sau lễ mọi người xúm lại ném đá con chết, không chừng lại không cho ăn cơm trưa… Thế cho nên, cho phép con dừng lại ở đây, dừng ở đây với một lời cầu nguyện của Cha Perico, một lời cầu nguyện rất hay như là một lời cầu chúc đến 3 chị:
Lạy Chúa xin dạy con biết cách già như một người kitô hữu. Xin thuyết phục con rằng: người ta chẳng hề bất công khi cất khỏi con mọi trách nhiệm, khi chẳng còn ai tìm đến hỏi ý kiến của con, khi một người khác được đặt vào chỗ vốn là của con trước đây. Xin hãy tước khỏi con niềm tự hào với những kinh nghiệm đã thuộc về quá khứ. Xin hãy cất khỏi con cảm giác rằng con là người bất khả thay thế.
Ôi lạy Chúa! Ước gì qua sự mất mát từng ngày đối với những phù hoa vật chất, con nhìn ra được quy luật của thời gian và nhận ra cuộc đời con vẫn đang diễn tiến từng ngày dưới sự thôi thúc của một bàn tay quan phòng kỳ diệu.
Lạy Chúa! Xin hãy giúp con để con vẫn còn hữu ích với người khác, nhất là những người đang gánh vác nhiều trách nhiệm, bằng sự lạc quan và lời kinh nguyện, bằng sự vui tươi và nhiệt huyết sống. Xin kết nối con vào cuộc đời, giữa một thế giới không ngừng đổi thay, bằng thái độ sống khiêm tốn và thanh thản, mà không cần phải ca thán vì những gì đã qua.
Xin dạy con biết chấp nhận bước ra khỏi sân chơi của cuộc đời, như con đã từng thản nhiên đón nhận khi những buổi hoàng hôn lịm tắt. Con cũng cầu xin Chúa tha thứ, nếu mãi đến lúc này, những buổi chiều tà xế bóng, con mới nhận ra Chúa đã yêu con đến dường nào. Xin Chúa tiếp tục dạy con biết nhìn ngắm phúc phận của đời mình, với một lòng biết ơn sâu xa, phúc phận mà Chúa đã chuẩn bị cho con, và không ngừng dẫn bước con tiến về, khởi từ giây phút đầu tiên của cuộc đời con.
Lạy Chúa, xin dạy 3 chị của chúng con biết cách già như thế.
Giuse Nguyễn Trọng Sơn
Kỷ niệm ngày tuyên hứa là kỷ niệm ngày thánh hiến.[1] Thánh hiến có nghĩa là thuộc về Đấng Thánh là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn từng người một, đích danh, để thuộc về Ngài. Và mỗi người chúng ta đã tự do đáp lại. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta cần làm mới lại sự thánh hiến này.
Có những dịp đặc biệt để làm mới lại ơn gọi thánh hiến, nhưng phải nói rằng, để sống ơn gọi thuộc về Thiên Chúa, thì người được gọi phải làm cho ơn gọi trở nên mới mẻ từng ngày, có nghĩa là phải thưa “xin vâng” mọi ngày, trong mỗi công việc, mỗi cơ hội diễn ra trong đời sống. Khi nào không làm cho ơn gọi trở nên hiện sinh thì ơn gọi đang “cũ mốc” đi, và đánh mất ý nghĩa thực sự của ơn gọi!
Thánh hiến là tác động của Thiên Chúa, còn hiến dâng là hành vị đáp trả của con người.
Mọi ơn gọi kitô giáo đều mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng, nhưng mỗi ơn gọi lại mang thêm những ý nghĩa đặc thù theo đặc sủng sáng lập. Vậy ơn gọi Foyer de Charité mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng nào?
Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp ơn gọi năm nay (2025) về sự hiến dâng toàn bộ đời sống/ cuộc sống.[2] Sự hiến dâng không “ngồi chờ” để thể hiện vào lúc ai đó đòi giết mình, nhưng hiến dâng toàn bộ cuộc sống, toàn bộ cuộc hiện sinh.
Sự thánh hiến-hiến dâng của chị Marthe khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ. Năm 16 tuổi (1918), cô Marthe té ngã trong nhà bếp, cô ở trong tình trạng “lơ mơ” (được gọi là “un coma mystique”, vì có Thiên Chúa can thiệp), phải nằm giường một thời gian. Lúc này Đức Trinh Nữ hiện ra với cô: “Tôi đã thấy Đức Trinh Nữ”. Tháng ba (hoặc tháng tư hoặc tháng năm?) năm 1921, khi có thể đứng dậy được, thì “cô không còn là mình như trước đó nữa”.[3] Mùa Xuân năm 1922, lúc 20 tuổi, cô đọc được dòng chữ sau trong một cuốn sách đạo đức cũ: “Tại sao con tìm kiếm nghỉ ngơi, bởi vì con được dựng nên để chiến đấu mà? Tại sao con tìm kiếm hạnh phúc, bởi vì con được dựng nên cho đau khổ mà?”[4]. Cô Marthe nghe thúc đẩy trong lòng: “Đau khổ dành cho con”. Rồi cô đọc tiếp: “Phải trao hiến cho Thiên Chúa tất cả”. Ba năm nằm giường bệnh, đau đớn về tinh thần và thể xác cùng với sự thinh lặng và nhất là cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ đã đưa đến cho cô một trải nghiệm mới. Cô Marthe liền quỳ gối xuống và nói lời xin vâng.[5]
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài đã yêu cầu tất cả nơi nữ tỳ bé nhỏ của Ngài: vậy xin hãy lấy và đón nhận tất cả.
Ngày ấy, con đã đặt tất cả nơi Ngài, không giữ lại gì và không lấy lại.
Xin hãy nhận lấy trí khôn của con và dùng nó cho vinh quang của Ngài.
Hãy nhận lấy tất cả ý muốn của con…[7]
Hãy nhận lấy thân xác con, các giác quan, trí tuệ con, tất cả những khả năng, con tim và tất cả tình cảm của con.
Hãy nhận lấy hiến lễ mà trong thinh lặng con dâng Chúa từng ngày và mọi thời khắc…
Hãy nhận lấy và thánh hoá mọi lời nói, mọi hoạt động, mọi khát vọng của con.
Cần phải nhận ra rằng việc dâng hiến mạng sống đòi hỏi một sự đáp trả quảng đại và trung thành. Hãy nhìn các vị thánh và chân phước trẻ đã vui mừng đáp lại tiếng gọi của Chúa… Mỗi người trong số các ngài đã sống ơn gọi của mình như một con đường dẫn đến hạnh phúc trọn vẹn, trong mối tương quan với Chúa Giêsu hằng sống (Sứ điệp, 2)
Người được gọi cảm nhận mình được yêu thương:
Thiên Chúa muốn đánh thức nơi mỗi người ý thức được yêu thương, được kêu gọi và được sai đi như một người lữ hành hy vọng.” (Sứ điệp, 1)[8]
Mọi ơn gọi được cảm nhận sâu xa trong tâm hồn đều nảy sinh sự đáp trả như một động lực nội tâm hướng tới tình yêu và sự phục vụ, như nguồn hy vọng và bác ái chứ không phải như một cuộc tìm kiếm sự khẳng định bản thân (Sứ điệp, 2)
Nếu ơn gọi đích thực có hướng đi về với tha nhân thì cũng có thể nói ngược lại, nếu không thể hiện được tính hướng tha trong đời sống ơn gọi thì có nghĩa là, hoặc không có ơn gọi, hoặc đã hiểu sai về ơn gọi!
Chị Marthe “sống” đau khổ do bệnh tật của mình trong một ý thức về tình yêu rất rõ ràng.
Lạy Đấng Yêu Dấu của con, con chỉ muốn một mình Ngài mà thôi… Và vì tình yêu dành cho Ngài, con từ bỏ tất cả…[9]
Việc được chia sẻ những dấu thánh được Chị coi như cách để sống tình yêu cách mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu Kitô. Chị cũng coi đó là cơ hội để cầu nguyện cho tha nhân, nhất là những tội nhân.
Chị không có sức khoẻ để làm việc sinh ra lợi nhuận hay để cáng đáng những công việc trong cộng đoàn, nhưng trên giường bệnh, Chị dâng chính bệnh tật của mình để cầu nguyện cho người khác. Chị sống đức ái bằng sự đón tiếp với lòng yêu mến. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và đời sống tâm linh sâu sắc của Chị thực sự mang lại lợi ích cho rất nhiều người đến với Chị.
“Chúa Giêsu đã yêu tôi đến nỗi chịu đau khổ và chết trên thập giá. Tôi cũng muốn yêu Ngài bằng cách hiến dâng mọi đau khổ của mình cho Ngài.”
“Yêu thương có nghĩa là quên đi bản thân mình để nghĩ đến người khác, để phục vụ họ, để cầu nguyện cho họ, để mang lại cho họ niềm vui và sự bình an.”
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám hiến mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu thực sự không phải là tìm kiếm hạnh phúc riêng mình, mà là dám cho đi, dám hy sinh.”
“Chỉ có tình yêu mới làm cho tâm hồn thực sự hạnh phúc. Một trái tim biết yêu thương là một trái tim luôn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.”
Gợi ý suy tư
[1] Nhớ lại ngày thánh hiến cũng mang ý nghĩa tương tự.
[2] “Pellegrini di speranza: il dono della vita/ Pèlerins d’espérance: le don de la vie” được chuyển sang tiếng Việt là: “Những người hành hương hy vọng: dâng hiến mạng sống” (Tý Linh chuyển ngữ. https://xuanbichvietnam.net/); hoặc “Những người hành hương hy vọng: quà tặng sự sống” (https://www.vaticannews.va/). “Mạng sống” nhấn mạnh thái độ sẵn sàng chết cho. “Sự sống” lưu tâm đến cuộc hiện sinh. Nội dung sứ điệp lưu tâm đến nghĩa thứ hai này.
[3] Raymond Peyret, Petite vie de Marthe Robin. Le secret de Marthe, éd. Peuple Libre, Desclée de Brouwer, 1988, tr.36.
[4] Xem Nhật ký của Marthe Robin ngày 14/09/1930.
[5] Raymond Peyret, tr. 37-38.
[6] Raymond Peyret, tr.39-41.
[7] Chị Marthe từ bỏ ý muốn xin được chữa lành bệnh, xin được chữa lành để theo ơn gọi dòng nữ Cát Minh như “người chị yêu dấu” Têrêsa Chúa Giêsu Hài Đồng.
[8] Phanxicô, sứ điệp Ngày Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, 2025.
[9] Raymond Peyret, tr.39.
Kỷ niệm ngày tuyên hứa là kỷ niệm ngày thánh hiến.[1] Thánh hiến có nghĩa là thuộc về Đấng Thánh là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã chọn từng người một, đích danh, để thuộc về Ngài. Và mỗi người chúng ta đã tự do đáp lại. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta cần làm mới lại sự thánh hiến này.
Có những dịp đặc biệt để làm mới lại ơn gọi thánh hiến, nhưng phải nói rằng, để sống ơn gọi thuộc về Thiên Chúa, thì người được gọi phải làm cho ơn gọi trở nên mới mẻ từng ngày, có nghĩa là phải thưa “xin vâng” mọi ngày, trong mỗi công việc, mỗi cơ hội diễn ra trong đời sống. Khi nào không làm cho ơn gọi trở nên hiện sinh thì ơn gọi đang “cũ mốc” đi, và đánh mất ý nghĩa thực sự của ơn gọi!
Thánh hiến là tác động của Thiên Chúa, còn hiến dâng là hành vị đáp trả của con người.
Mọi ơn gọi kitô giáo đều mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng, nhưng mỗi ơn gọi lại mang thêm những ý nghĩa đặc thù theo đặc sủng sáng lập. Vậy ơn gọi Foyer de Charité mang ý nghĩa thánh hiến-hiến dâng nào?
Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp ơn gọi năm nay (2025) về sự hiến dâng toàn bộ đời sống/ cuộc sống.[2] Sự hiến dâng không “ngồi chờ” để thể hiện vào lúc ai đó đòi giết mình, nhưng hiến dâng toàn bộ cuộc sống, toàn bộ cuộc hiện sinh.
Sự thánh hiến-hiến dâng của chị Marthe khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ. Năm 16 tuổi (1918), cô Marthe té ngã trong nhà bếp, cô ở trong tình trạng “lơ mơ” (được gọi là “un coma mystique”, vì có Thiên Chúa can thiệp), phải nằm giường một thời gian. Lúc này Đức Trinh Nữ hiện ra với cô: “Tôi đã thấy Đức Trinh Nữ”. Tháng ba (hoặc tháng tư hoặc tháng năm?) năm 1921, khi có thể đứng dậy được, thì “cô không còn là mình như trước đó nữa”.[3] Mùa Xuân năm 1922, lúc 20 tuổi, cô đọc được dòng chữ sau trong một cuốn sách đạo đức cũ: “Tại sao con tìm kiếm nghỉ ngơi, bởi vì con được dựng nên để chiến đấu mà? Tại sao con tìm kiếm hạnh phúc, bởi vì con được dựng nên cho đau khổ mà?”[4]. Cô Marthe nghe thúc đẩy trong lòng: “Đau khổ dành cho con”. Rồi cô đọc tiếp: “Phải trao hiến cho Thiên Chúa tất cả”. Ba năm nằm giường bệnh, đau đớn về tinh thần và thể xác cùng với sự thinh lặng và nhất là cuộc gặp gỡ với Đức Trinh Nữ đã đưa đến cho cô một trải nghiệm mới. Cô Marthe liền quỳ gối xuống và nói lời xin vâng.[5]
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài đã yêu cầu tất cả nơi nữ tỳ bé nhỏ của Ngài: vậy xin hãy lấy và đón nhận tất cả.
Ngày ấy, con đã đặt tất cả nơi Ngài, không giữ lại gì và không lấy lại.
Xin hãy nhận lấy trí khôn của con và dùng nó cho vinh quang của Ngài.
Hãy nhận lấy tất cả ý muốn của con…[7]
Hãy nhận lấy thân xác con, các giác quan, trí tuệ con, tất cả những khả năng, con tim và tất cả tình cảm của con.
Hãy nhận lấy hiến lễ mà trong thinh lặng con dâng Chúa từng ngày và mọi thời khắc…
Hãy nhận lấy và thánh hoá mọi lời nói, mọi hoạt động, mọi khát vọng của con.
Cần phải nhận ra rằng việc dâng hiến mạng sống đòi hỏi một sự đáp trả quảng đại và trung thành. Hãy nhìn các vị thánh và chân phước trẻ đã vui mừng đáp lại tiếng gọi của Chúa… Mỗi người trong số các ngài đã sống ơn gọi của mình như một con đường dẫn đến hạnh phúc trọn vẹn, trong mối tương quan với Chúa Giêsu hằng sống (Sứ điệp, 2)
Người được gọi cảm nhận mình được yêu thương:
Thiên Chúa muốn đánh thức nơi mỗi người ý thức được yêu thương, được kêu gọi và được sai đi như một người lữ hành hy vọng.” (Sứ điệp, 1)[8]
Mọi ơn gọi được cảm nhận sâu xa trong tâm hồn đều nảy sinh sự đáp trả như một động lực nội tâm hướng tới tình yêu và sự phục vụ, như nguồn hy vọng và bác ái chứ không phải như một cuộc tìm kiếm sự khẳng định bản thân (Sứ điệp, 2)
Nếu ơn gọi đích thực có hướng đi về với tha nhân thì cũng có thể nói ngược lại, nếu không thể hiện được tính hướng tha trong đời sống ơn gọi thì có nghĩa là, hoặc không có ơn gọi, hoặc đã hiểu sai về ơn gọi!
Chị Marthe “sống” đau khổ do bệnh tật của mình trong một ý thức về tình yêu rất rõ ràng.
Lạy Đấng Yêu Dấu của con, con chỉ muốn một mình Ngài mà thôi… Và vì tình yêu dành cho Ngài, con từ bỏ tất cả…[9]
Việc được chia sẻ những dấu thánh được Chị coi như cách để sống tình yêu cách mạnh mẽ đối với Chúa Giêsu Kitô. Chị cũng coi đó là cơ hội để cầu nguyện cho tha nhân, nhất là những tội nhân.
Chị không có sức khoẻ để làm việc sinh ra lợi nhuận hay để cáng đáng những công việc trong cộng đoàn, nhưng trên giường bệnh, Chị dâng chính bệnh tật của mình để cầu nguyện cho người khác. Chị sống đức ái bằng sự đón tiếp với lòng yêu mến. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và đời sống tâm linh sâu sắc của Chị thực sự mang lại lợi ích cho rất nhiều người đến với Chị.
“Chúa Giêsu đã yêu tôi đến nỗi chịu đau khổ và chết trên thập giá. Tôi cũng muốn yêu Ngài bằng cách hiến dâng mọi đau khổ của mình cho Ngài.”
“Yêu thương có nghĩa là quên đi bản thân mình để nghĩ đến người khác, để phục vụ họ, để cầu nguyện cho họ, để mang lại cho họ niềm vui và sự bình an.”
“Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám hiến mạng sống vì người mình yêu. Tình yêu thực sự không phải là tìm kiếm hạnh phúc riêng mình, mà là dám cho đi, dám hy sinh.”
“Chỉ có tình yêu mới làm cho tâm hồn thực sự hạnh phúc. Một trái tim biết yêu thương là một trái tim luôn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.”
Gợi ý suy tư
[1] Nhớ lại ngày thánh hiến cũng mang ý nghĩa tương tự.
[2] “Pellegrini di speranza: il dono della vita/ Pèlerins d’espérance: le don de la vie” được chuyển sang tiếng Việt là: “Những người hành hương hy vọng: dâng hiến mạng sống” (Tý Linh chuyển ngữ. https://xuanbichvietnam.net/); hoặc “Những người hành hương hy vọng: quà tặng sự sống” (https://www.vaticannews.va/). “Mạng sống” nhấn mạnh thái độ sẵn sàng chết cho. “Sự sống” lưu tâm đến cuộc hiện sinh. Nội dung sứ điệp lưu tâm đến nghĩa thứ hai này.
[3] Raymond Peyret, Petite vie de Marthe Robin. Le secret de Marthe, éd. Peuple Libre, Desclée de Brouwer, 1988, tr.36.
[4] Xem Nhật ký của Marthe Robin ngày 14/09/1930.
[5] Raymond Peyret, tr. 37-38.
[6] Raymond Peyret, tr.39-41.
[7] Chị Marthe từ bỏ ý muốn xin được chữa lành bệnh, xin được chữa lành để theo ơn gọi dòng nữ Cát Minh như “người chị yêu dấu” Têrêsa Chúa Giêsu Hài Đồng.
[8] Phanxicô, sứ điệp Ngày Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi, 2025.
[9] Raymond Peyret, tr.39.
Dẫn nhập
Tựa đề “chết – sống” mà không phải là “sống – chết”, tại sao lại vậy? Đoạn Tin Mừng Gio-an 11,1-54 khởi đầu bằng cái chết của La-da-rô (11,14) và kết thúc bằng việc Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Bầu khí tang tóc, khóc thương bao trùm đoạn văn. Trong khi sự kiện Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại chỉ được trình bày qua mấy chữ ngắn ngủi (11,43). Bản văn nhấn mạnh đề tài “chết” nên được đặt trước từ “sống”. Vả lại, “sự chết” được đặt trước thì phù hợp với quy luật “sự sống” như Đức Giê-su cho biết ở 12,24: “A-men, a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hạt.” Đoạn văn 11,1-54 đặt ra cho độc giả ba câu hỏi sau:
Thứ nhất: Tại sao Đức Giê-su không đến sớm hơn để cứu La-da-rô? Quyết định ở lại thêm hai ngày và để La-da-rô chết liệu có đi ngược lại với tình thương của Người dành cho gia đình này không? Khi Đức Giê-su nói: “bệnh này không đến nỗi chết” (11,4) nghĩa là có thể cứu, tại sao lại không cứu?
Thứ hai: Tại sao Đức Giê-su lại làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính anh ấy lại chết vì sự sống lại của mình? Người thuật chuyện cho biết ở 12,10-11: “10 Các thượng tế quyết định giết cả La-da-rô, 11 vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ đi và tin vào Đức Giê-su.”
Thứ ba: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại mà không làm cho người tin và thân nhân người tin được sống lại? Phải chăng Đức Giê-su ưu đãi gia đình chị em La-da-rô hơn các môn đệ, khi họ phải đối diện với bách hại?
Ba câu hỏi trên nảy sinh từ bản văn, nên chính bản văn sẽ đưa ra câu trả lời. Để tìm giải đáp cho ba câu hỏi trên bài viết trình bày hai mục: (I) bản văn, bối cảnh và cấu trúc 11,1-54; (II) ý nghĩa “chết và sống” của La-da-rô, của Đức Giê-su và của người tin.
Kết thúc trình thuật với việc gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,1-46) là chưa đầy đủ ý nghĩa mặc khải trong ch. 11. Cần nối kết với đoạn văn tiếp theo (11,47-54) để làm lộ ra điều nghịch lý: người có khả năng làm cho người khác sống lại thì sắp phải chết. Nói cách khác, người có quyền trên sự chết lại chọn con đường “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên” (10,11). Để chuẩn bị phân tích đoạn văn dài 11,1-54, phần sau trình bày ba điểm: (1) bản văn, (2) bối cảnh và (3) cấu trúc.
Câu chuyện về cái chết của La-da-rô và quyết định giết Đức Giê-su (Ga 11,1-54) được thuật lại như sau:
11,1 Có một người bệnh là La-da-rô ở Bê-ta-ni-a, làng của Ma-ri-a và Mác-ta, chị của cô ấy. 2 Ma-ri-a là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lau chân Người bằng tóc của mình. Em của cô ấy là La-da-rô bị bệnh. 3 Vậy các chị sai người đến nói với Người: “Thưa Thầy, này người Thầy thương mến bị bệnh.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi chết nhưng vì vinh quang của Thiên Chúa, để qua đó Con Thiên Chúa được tôn vinh.” 5 Đức Giê-su yêu mến Mác-ta, em cô ấy và La-da-rô. 6 Tuy nhiên, sau khi nghe rằng anh ấy bệnh, Người còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7 Sau điều đó, Người nói với các môn đệ: “Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.” 8 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” 9 Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.” 11 Người đã nói những điều ấy, và sau đó, Người nói với các ông: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy.” 12 Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc, anh ấy sẽ được cứu.” 13 Đức Giê-su nói về cái chết của anh ta, nhưng họ tưởng rằng Người nói về giấc ngủ thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ ràng với các ông: “La-da-rô đã chết, 15 Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó. Nhưng chúng ta cùng đi đến với anh ấy.” 16 Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”
17 Khi đến nơi, Đức Giê-su nhận thấy anh ấy đã ở trong trong mồ bốn ngày rồi. 18 Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng 15 dặm (2,8 km). 19 Nhiều người trong những người Do Thái đến với Mác-ta và Ma-ri-a để an ủi các cô về người em. 20 Vậy khi Mác-ta nghe rằng Đức Giê-su đến, cô ấy ra gặp Người. Còn Ma-ri-a ngồi ở nhà. 21 Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 [Nhưng] bây giờ con biết rằng: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy.” 23 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Em chị sẽ sống lại.” 24 Mác-ta nói với Người: “Con biết rằng em con sẽ sống lại, trong sự sống lại vào ngày sau hết.” 25 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết. Chị có tin điều đó không?” 27 Chị ấy nói với Người: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin rằng chính Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”
28 Nói xong điều đó, cô ấy đi và gọi Ma-ri-a, em của cô. Cô ấy nói nhỏ: “Thầy đến rồi và Thầy gọi em.” 29 Nghe vậy, Ma-ri-a vội đứng lên đến với Người. 30 Lúc đó, Đức Giê-su chưa vào làng, nhưng Người vẫn ở chỗ Mác-ta đã gặp Người. 31 Vậy những người Do Thái đang ở với Ma-ri-a trong nhà và chia buồn với cô ấy, thấy Ma-ri-a vội vã đứng dậy đi ra, họ đi theo cô ấy, vì tưởng cô ấy đi ra mộ để khóc ở đó. 32 Khi Ma-ri-a đến gần Đức Giê-su, vừa thấy Người, cô ấy liền phủ phục dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” 33 Khi Đức Giê-su thấy cô ấy khóc, và những người Do Thái đi với cô ấy cũng khóc, Người thổn thức trong tâm trí và xao xuyến. 34 Người nói: “Các người đặt anh ấy ở đâu?” Họ nói với Người: “Thưa Thầy, hãy đến và hãy xem.” 35 Đức Giê-su khóc. 36 Vậy những người Do Thái nói: “Xem kìa! Ông ta thương anh ấy biết mấy.” 37 Nhưng vài người trong nhóm họ nói: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?”
38 Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Đó là một cái hang và có phiến đá đậy lại. 39 Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Mác-ta, chị người chết, nói với Người: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày.” 40 Đức Giê-su nói với chị ấy: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Vậy họ đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã lắng nghe Con. 42 Phần Con, Con biết rằng: Cha hằng lắng nghe Con, nhưng vì đám đông đứng quanh đây nên Con đã nói, để họ tin rằng chính Cha đã sai Con.” 43 Nói xong điều đó, Người kêu lên một tiếng lớn: “La-da-rô, hãy ra ngoài.” 44 Người chết liền đi ra, chân, tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su nói với họ: “Hãy cởi ra cho anh ấy và hãy để anh ấy đi.” 45 Nhiều người trong những người Do Thái – những người đến với Ma-ri-a – thấy những gì Người làm, đã tin vào Người. 46 Nhưng vài người trong nhóm họ đến với những người Pha-ri-sêu và nói cho họ những gì Đức Giê-su đã làm.
47 Vậy các thượng tế và những người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: “Chúng ta làm gì đây vì người này làm nhiều dấu lạ? 48 Nếu chúng ta cứ để Ông ấy như thế tất cả sẽ tin vào Ông ấy, và người Rô-ma sẽ đến, họ sẽ huỷ diệt nơi thánh và dân tộc chúng ta.” 49 Một người trong số họ là Cai-pha, đang là thượng tế năm ấy, nói với họ: “Các ông không biết gì cả, 50 các ông cũng chẳng nghĩ rằng: Điều lợi cho các ông là một người chết cho dân và toàn thể dân tộc không bị tiêu diệt.” 51 Điều đó, ông ấy không tự mình nói ra, nhưng vì đang là thượng tế năm ấy, ông ấy tiên báo rằng Đức Giê-su sắp phải chết cho dân tộc, 52 và không chỉ cho dân tộc, nhưng còn để con cái Thiên Chúa đang tản mác quy tụ về thành một. 53 Vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người. 54 Vậy Đức Giê-su không đi lại công khai giữa những người Do Thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang mạc, vào một thành gọi là Ép-ra-im, và Người ở lại đó với các môn đệ.
Trong Tin Mừng, sứ vụ Đức Giê-su được trình bày trong khung cảnh một ngày làm việc. Bình minh ở ch. 1, khi ánh sáng bắt đầu chiếu rọi vào thế gian: “Người là ánh sáng thật, chiếu soi mọi người, đến trong thế gian” (1,9). Giờ ngọ ở ch. 8 và ch. 9 khi Đức Giê-su khẳng định Người là ánh sáng của thế gian. Ngày làm việc xế chiều với ch. 11, vì cái chết đã đến gần, Thượng Hội Đồng đã quyết định giết Đức Giê-su (11,53). Người kết thúc sứ vụ ở ch. 12 và mặc khải về ý nghĩa sự chết của Người cho các môn đệ trong các ch. 13–17. Ch. 18–19 là đêm tối, người ta đến bắt Đức Giê-su vào ban đêm và Người hoàn tất cuộc đời trên thập giá. Đoạn văn 11,1-54 là một mắt xích trong “ngày” sứ vụ của Đức Giê-su. Từ ch. 11, Người không còn tranh luận trực tiếp với những kẻ chống đối nữa (tranh luận kết thúc ở cuối ch. 10).
Tìm hiểu cấu trúc giúp khảo sát bản văn trước khi phân tích. Dựa vào yếu tố nhân vật và nơi chốn, đoạn văn 11,1-54 có cấu trúc đồng tâm A, B, C, B’, A’:
B’ : 11,47-53 : Họp Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su
A’. 11,54 : Kết thúc. Đức Giê-su vào trong hoang địa
Cấu trúc Ga 11,1-54
Phần A. 11,1-6 trình bày hoàn cảnh ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Cách giải quyết của hai chị em là sai người đi báo cho Đức Giê-su biết. Cách giải quyết của Đức Giê-su là ở lại thêm hai ngày sau khi nghe tin La-da-rô bị bệnh. Lúc này Đức Giê-su đang ở ngoài Giu-đê. Phần mở đầu (A. 11,1-6) song song với phần kết (A’. 11,54), Đức Giê-su rời khỏi đó đi vào vùng gần hoang địa. Phần B. 11,7-16 là đối thoại giữa Đức Giê-su và các môn đệ về việc La-da-rô chết. Đức Giê-su quyết định trở lại Bê-ta-ni-a trong bối cảnh Người đang bị những người Do Thái tìm ném đá (11,8). Tô-ma động viên các đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Như thế, phần B trình bày hai ý tưởng song song: La-da-rô đã chết còn Đức Giê-su đang bị đe doạ giết chết. Phần B (11,7-16) song song với B’ (11,47-53) nói về việc Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su. Phần trọng tâm của cấu trúc C. 11,17-46 là lúc Đức Giê-su ở Bê-ta-ni-a. Phần này có hai chi tiết quan trọng: (a) lời mặc khải của Đức Giê-su ở 11,25-26 được minh hoạ bằng (b) dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43).
Bản văn 11,1-54 nói về “chết và sống” của La-da-rô nên được trình bày trước. Kế đến bản văn cũng cho biết Đức Giê-su đang bị đe doạ ném đá và Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su nên “chết và sống” của Người được trình bày trong điểm tiếp theo. Cuối cùng tổng hợp hai điểm trên để nói về “chết và sống” của người tin.
Trong Tin Mừng, nhân vật La-da-rô chỉ xuất hiện ở đoạn văn 11,1-54 và đầu ch. 12 (12,1-11). Người thuật chuyện kể về La-da-rô, nhưng chính La-da-rô lại không hề lên tiếng trong bản văn, anh ấy không đối thoại trực tiếp hay gián tiếp với bất kỳ ai. Anh hiện diện trong bản văn như lời chất vấn dành cho các nhân vật khác về ý nghĩa “sự chết” và “sự sống”. Những gì được kể lại liên quan đến La-da-rô trong Ga 11–12 là “bị bệnh” (11,1), “chết” (11,14), “sống lại” (11,43), “ăn” (12,2), rồi lại chuẩn bị “chết” (12,10). Vậy “chết và sống” của anh ấy có ý nghĩa gì? Ba điểm sau bàn về sự hiện diện im lặng của anh ấy trong bản văn: (1) các nhân vật nói về cái chết của La-da-rô; (2) anh ấy sống lại để rồi chết; (3) nguyên lý của Đức Giê-su: “chết” để “sống”.
+ La-da-rô không lên tiếng nhưng lại hiện diện trong suốt đoạn văn 11,1-54. Ý tưởng La-da-rô sẽ chết được nhắc tới ngay từ phần dẫn nhập câu chuyện. Đức Giê-su nói: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng…” (11,4). Từ “nhưng” báo trước anh ấy sẽ chết. Trong phần tiếp theo câu chuyện, cái chết của La-da-rô trở thành đề tài để các nhân vật nói về anh ấy hay nói với nhau về sự chết. Bản văn dành phần quan trọng để trình bày cảm nhận của người sống (Đức Giê-su, Mác-ta, Ma-ri-a, những người Do Thái, đám đông) trước cái chết của La-da-rô.
+ Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ (11,43), nhưng sự sống lại của anh ta chỉ là ánh sáng loé lên trong đêm tối. Quả thế, việc La-da-rô chết được bàn đến trong 42 câu (11,1-42), trong khi dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ chỉ mô tả trong 2 câu (11,43-44). Hơn nữa, La-da-rô sống lại kéo theo hai cái chết khác. Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,53); và các thượng tế quyết định giết cả La-da-rô, vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su (12,10-11). Vậy Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính Người và La-da-rô phải đối diện với cái chết. La-da-rô chết, sống lại, để rồi lại chết vì sự sống lại của mình. Nhân vật La-da-rô xuất hiện với cái chết thứ nhất vì bệnh, và kết thúc bằng cái chết thứ hai vì quyết định của các thượng tế.
+ Theo mạch văn, ch. 11 nhấn mạnh cái chết thứ nhất (chết vì bệnh) của La-da-rô (11,1-42) và ch. 12 nói đến cái chết thứ hai của anh (12,10-11). “Sự chết” được đề cao vì nó phù hợp với nguyên lý “chết để sống” mà Đức Giê-su đề ra ở 12,24-25: “24 A-men, a-men, Thầy bảo anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sinh nhiều hạt. 25 Ai yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình trong thế gian này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Nguyên lý “chết đi để sinh nhiều hạt” được áp dụng trước tiên cho Đức Giê-su, Người sẽ chết vì sự thù ghét của thế gian, nhưng Người sẽ chiến thắng: qua biến cố thập giá, Đức Giê-su đi về với Cha, Người được tôn vinh.
Quả thật, câu chuyện La-da-rô để lại nhiều câu hỏi cho độc giả: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại để rồi chính vì sự sống lại đó, anh ấy lại phải chết? La-da-rô ra khỏi mồ là dấu lạ lớn lao, nhưng để làm gì? Dấu lạ này nói về điều gì và cho ai?. Vì thế, chúng ta cần phân tích về “chết và sống” của Đức Giê-su để soi sáng những câu hỏi trên.
Từ ch. 11, Đức Giê-su không còn tranh luận trực tiếp với những kẻ chống đối Người nữa. Trong các ch. 11–12, Đức Giê-su bắt đầu mặc khải ý nghĩa sự chết và sự sống lại của Người. Trong bối cảnh này, phần sau chúng ta sẽ phân tích ba điểm: (1) La-da-rô đã chết, còn Đức Giê-su, Người đang bị đe doạ giết chết; (2) La-da-rô sống lại dẫn đến quyết định giết Đức Giê-su; (3) chính Đức Giê-su là sự sống.
Đầu tiên, ta thấy ở đầu ch. 11, La-da-rô đã chết (11,14), còn Đức Giê-su đang bị đe đọa giết chết. Các môn đệ nói với Người: “Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?” (11,8). Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã bị bách hại từ ch. 5 (5,18). Việc những kẻ chống đối tìm bắt Người được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các ch. 7; 8; 10. Đối với các môn đệ, trở lại Bê-ta-ni-a đồng nghĩa với “đi để chịu chết”, như Tô-ma đã nói với các bạn đồng môn ở 11,16: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để chết với Thầy.”
Tiếp đến, sau dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53). Điều trớ trêu là người làm cho kẻ chết sống lại thì sắp phải chết. Đức Giê-su có quyền hành trên sự chết nhưng chính Người không tránh khỏi cái chết. Quyết định của Thượng Hội Đồng (11,53) là bước ngoặt trong Tin Mừng. Trước đây những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu tìm cách ném đá và bắt Đức Giê-su nhưng chưa phải là quyết định chính thức của giới lãnh đạo Do Thái. Với quyết định này, Đức Giê-su không tránh khỏi cái chết. Đoạn văn 11,1-54 ở vào cuối sứ vụ Đức Giê-su, cái chết của La-da-rô gợi đến cái chết của Người sắp xảy ra.
Thứ ba, đoạn văn 11,1-54 không chỉ nói về sự chết của Đức Giê-su mà còn mặc khải về sự sống lại của Người. Người nói với Mác-ta ở 11,25: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.” Nói đến “sống lại” đã hàm ẩn sự chết, nhưng cái chết không nắm giữ được Người, Người sẽ sống lại vì chính Người là sự sống lại, như Người đã nói với những người Do Thái ở 10,18: “Không ai lấy mạng sống Tôi khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.” Để minh chứng cho điều này, Đức Giê-su gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Việc La-da-rô sống lại báo trước Đức Giê-su sẽ sống lại. Nói cách khác, qua “chết và sống” của La-da-rô, Đức Giê-su nói về “chết và sống” của chính Người. Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ, nghĩa là Đức Giê-su không sống lại theo kiểu như La-da-rô: sống lại về thể lý để rồi lại chết. Nhưng, sự sống lại của Đức Giê-su là sự sống mới, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Đó là sự sống của Thiên Chúa. Người về với Cha, đồng thời ở trong các môn đệ, như Người đã nói ở 14,20: “Trong ngày đó, anh em sẽ biết rằng: Thầy ở trong Cha của Thầy, anh em trong Thầy và Thầy trong anh em.”
Tóm lại, “chết và sống” của Đức Giê-su đan vào nhau. Người là sự sống lại và là sự sống, nhưng lại sắp phải chết. Người làm cho La-da-rô trỗi dậy sau khi chết bốn ngày, nhưng chính Người không tránh khỏi cái chết. Đề tài “chết và sống” của La-da-rô nói lên ý nghĩa “chết và sống” của Đức Giê-su. Hơn nữa, đoạn văn 11,1-54 không chỉ liên quan đến La-da-rô và Đức Giê-su, mà còn là mặckhải quan trọng về “chết và sống” của người tin.
Đề tài “chết và sống” của người tin có ý nghĩa thiết thực vì liên quan đến cuộc đời độc giả. Ý nghĩa câu chuyện được trình bày qua sáu điểm: (1) đối với La-da-rô, chết là điều tự nhiên của thân phận làm người; (2) đối với người tin, chết là ngủ; (3) bế tắc và giấc mơ của con người trước cái chết; (4) qua nhân vật Mác-ta, độc giả được mời gọi đi xa hơn niềm tin tuyền thống; (5) Đức Giê-su làm điều không ai dám nghĩ tới để mời gọi độc giả tin; (6) như các môn đệ, người tin được mời gọi can đảm đón nhận cái chết trong hoàn cảnh bị bách hại vì tin vào Đức Giê-su.
(1) La-da-rô chết vì bệnh là cái chết bình thường của thân phận con người. Đức Giê-su không can thiệp vào tiến trình sống và chết thể lý. Sứ vụ của Người không phải là cứu con người khỏi chết thể lý. Việc Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô là lời mời gọi con người chấp nhận sự chết thể lý như là điều tất yếu của thân phận làm người. Dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ không đề cao sự sống thể lý, vì La-da-rô sống lại để rồi chết. Hơn nữa, chính Đức Giê-su cũng không đi ngược lại tiến trình sống và chết. Người sống trọn vẹn thân phận làm người. Người đón nhận cái chết mà những kẻ chống đối áp đặt cho Người.
(2) Khi nói với các môn đệ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; nhưng Thầy đi để đánh thức anh ấy” (11,11), Đức Giê-su dùng từ “ngủ” để nói về sự chết thể lý. La-da-rô đã chết mà Đức Giê-su lại nói là ngủ. Phải chăng đối với những người được gọi là “bạn của Đức Giê-su” thì chết về thể lý chỉ là giấc ngủ? Câu này giúp người đọc hiểu lời Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,25: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống.” Người tin vào Đức Giê-su thì chết về thể lý không còn gọi là chết nữa mà là “giấc ngủ”. Nhưng các môn đệ không hiểu, Mác-ta cũng không hiểu lời Đức Giê-su. Phải chờ đến lúc La-da-rô ra khỏi mồ thì các nhân vật trong câu chuyện và nhất là độc giả mới có đủ các yếu tố để hiểu những lời Đức Giê-su đã nói.
(3) Câu chuyện cho thấy cái chết của La-da-rô là một mất mát không thể bù đắp. Sự chết là bức tường ngăn cách không thể vượt qua. Nơi ở của người chết là phần mộ, Mác-ta đã từ chối mở phiến đá vì tử thi đã “nặng mùi” sau bốn ngày (11,39). Sau khi La-da-rô chết, những gì còn lại là nỗi đau mất mát. Những người Do Thái đến để an ủi (11,9) và chia buồn (11,31). Trước sự chết, con người chỉ còn biết khóc thương. Phiến đá che mộ nói lên sự chia ly, ngăn cách giữa người sống và người chết. Thái độ của Mác-ta và Ma-ri-a trong câu chuyện là hai thái độ khác nhau của con người trước sự chết. Trong đoạn văn, không thấy Mác-ta khóc, nhưng Ma-ri-a khóc. Mác-ta trao đổi và tuyên xưng đức tin với Đức Giê-su, còn Ma-ri-a thì không. Mác-ta tuyên xưng niềm tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Còn Ma-ri-a diễn tả nỗi đau mất mát trước cái chết bằng nước mắt. Cả hai đều bất lực trước khoảng cách giữa sống và chết.
Giấc mơ muôn thuở của con người là tránh khỏi cái chết. Khi La-da-rô chưa chết, hai chị em sai người đến báo cho Đức Giê-su, với hy vọng Người sẽ cứu cho La-da-rô khỏi chết. Khi La-da-rô đã chết rồi thì chỉ còn lại nuối tiếc. Cả hai chị em đều nói câu đầu tiên với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (11,21.32). Những người Do Thái cũng chỉ biết thốt lên: “Ông ấy đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?” (11,37). Họ nói về khả năng “làm cho La-da-rô khỏi chết”, còn bây giờ đã chết rồi, không ai dám nghĩ đến việc anh ta sẽ sống lại.
(4) Đứng trước sự chết, con người tin vào sự sống lại trong ngày sau hết. Niềm tin truyền thống này được thể hiện qua trao đổi giữa Đức Giê-su và Mác-ta (11,21-27). Xem ra Mác-ta ở vào tư thế chủ động và xác tín niềm tin của mình. Khi Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại” (11,23), Mác-ta thưa: “Con biết rằng em con sẽ sống lại, trong sự sống lại vào ngày sau hết” (11,24). Độc giả biết là Mác-ta đã không hiểu đúng lời Đức Giê-su. Người muốn nói La-da-rô sẽ sống lại ngay bây giờ thì Mác-ta lại hiểu là sống lại trong ngày sau hết. Khi Đức Giê-su nói với chị ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin điều đó không?” (11,25-26), Mác-ta trả lời: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin rằng Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (11,27). Nhưng Mác-ta đã không hiểu ý nghĩa lời Đức Giê-su, vì khi Người nói với chị: “Đem phiến đá này đi” (11,39a), chị từ chối và nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì đã bốn ngày” (11,39b). Mác-ta không hề nghĩ là em chị sẽ sống lại ngay bây giờ.
Khi Đức Giê-su nói với Mác-ta ở 11,40: “Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (11,40), Người mời gọi Mác-ta và độc giả đi xa hơn niềm tin truyền thống. Độc giả nhận ra rằng lời tuyên xưng của Mác-ta về sự sống lại trong ngày sau hết (11,24) và về Đức Giê-su là “Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (11,27) cũng là tuyên xưng niềm tin của cộng đoàn Gio-an và của Ki-tô hữu. Tuy nhiên qua sự hiểu lầm của Mác-ta, bản văn dẫn người đọc đi xa hơn và hiểu đúng hơn mặc khải của Đức Giê-su về sự sống lại.
(5) Đối diện với sự chết, Đức Giê-su đã làm điều không ai dám nghĩ tới: gọi La-da-rô ra khỏi mồ. Dấu lạ này là niềm vui bất ngờ và lớn lao cho mọi người. Theo mạch văn, niềm tin của Mác-ta đã tiến thêm một bước dài sau khi thấy em cô ra khỏi mồ. Như thế, mục đích câu chuyện là mời gọi những người chứng kiến dấu lạ và độc giả tin vào lời Đức Giê-su ở 11,25-26a (trích dẫn trên đây). Nội dung niềm tin gồm hai khía cạnh: (1) Về đối tượng của lòng tin, đó là tin vào Đức Giê-su (11,45), tin rằng Chúa Cha đã sai Người (11,42), tin Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống (11,25), tin Người có quyền hành trên sự chết, dù sẽ chết nhưng Người sẽ sống lại. (2) Về phía người tin, ai tin vào Đức Giê-su thì không còn phải chết nữa vì đã có sự sống đời đời ngay bây giờ chứ không phải chờ đến ngày sau hết. Trước sự bế tắc của con người khi đối diện với sự chết, lời Đức Giê-su là niềm hy vọng lớn lao cho độc giả. bản văn cho thấy “chết và sống” của La-da-rô là dấu chỉ về “chết và sống” của người tin. Việc La-da-rô ra khỏi mồ không chỉ liên quan tới anh ấy, mà liên quan đến sự sống đích thực của mọi người.
(6) Về phía các môn đệ, các ông sẽ cùng chịu chung số phận với Thầy. Các ông sẽ bị bách hại và bị đe doạ giết chết vì đã tin vào Đức Giê-su. Trong ch. 11, Tô-ma động viên các bạn đồng môn cùng đi để chết với Thầy (11,16). Trước khi bước vào cuộc Thương khó, Đức Giê-su cho các môn đệ biết ở 16,2: “Họ sẽ làm cho anh em trở thành những người bị khai trừ khỏi hội đường. Sẽ đến giờ, kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” Đức Giê-su không cứu các môn đệ khỏi cái chết thể lý như La-da-rô. Vậy việc La-da-rô sống lại có ý nghĩa gì cho các môn đệ?
Ngay đầu đoạn văn 11,1-54, Đức Giê-su hé mở ý nghĩa việc Người sắp làm. Người nói với các môn đệ ở 11,15: “Thầy mừng cho anh em, để anh em tin, Thầy đã không có mặt ở đó.” Mục đích của dấu lạ là “để anh em tin”. Tin ở đây không chỉ là tin vào sự sống lại trong ngày sau hết như Mác-ta, nhưng là tin vào sự sống đời đời ngay ở đời này (11,25-27). Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ trở thành sự khích lệ và động viên các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Dù bị bách hại đến chết, người môn đệ vẫn được sống. Chứng kiến La-da-rô ra khỏi mồ, người tin có thêm sức mạnh để sống quy luật hạt lúa mì gieo vào lòng đất: “chết” để “sống” (12,24). La-da-rô sống lại là bảo chứng để người tin dám hy sinh mạng sống mình để giữ sự sống đích thực như Đức Giê-su nói ở 12,25: “Ai yêu mạng sống mình sẽ mất nó; ai ghét mạng sống mình trong thế gian này, sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Dấu lạ La-da-rô ra khỏi mồ là niềm vui thực sự cho người tin về “chết” (sự chết thể lý) và “sống” (sự sống đời đời). Bản văn mời gọi độc giả nhận ra quà tặng sự sống này trong hoàn cảnh bị bách hại vì niềm tin vào Đức Giê-su. Đồng thời dám sống trọn vẹn thân phận làm người, không thất vọng khi đối diện với cái chết thể lý của người thân và của chính mình, cái chết mà Đức Giê-su gọi là “giấc ngủ”.
Kết luận
Bài viết đã phần nào trả lời ba câu hỏi lớn:
Thứ nhất: Tại sao Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô? Người không đến cứu La-da-rô không phải vì không thương gia đình này, nhưng Người không muốn can thiệp vào quy luật sống, chết thể lý của thân phận con người. Đã là người thì không ai tránh khỏi cái chết. La-da-rô được sống lại về thể lý cũng không ra ngoài quy luật này, anh ấy sẽ lại chết. Đức Giê-su đã sống thân phận làm người, Người đã chết. Người là Con Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa, Thiên Chúa là Cha của Người, nhưng Người cũng không tránh khỏi cái chết thể lý thì việc La-da-rô chết là chuyện bình thường của đời người. Việc Đức Giê-su không đến cứu La-da-rô trở thành lời mời gọi mọi người can đảm sống thân phận làm người.
Thứ hai: Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại? Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ về sự chết và sống lại của Đức Giê-su. Trong biến cố Thương Khó, sau khi bị bắt và bị tra hỏi, Người không thể giải thích ý nghĩa cái chết của Người cho các môn đệ được nữa. Nên qua dấu lạ gọi La-da-rô ra khỏi mồ, Đức Giê-su báo trước sự sống lại của Người. Đức Giê-su bày tỏ uy quyền của Người trên sự chết (sự chết của La-da-rô và của chính Người). Sự tôn vinh Thiên Chúa và tôn vinh Con Thiên Chúa ở 11,4.40 cần được nối kết với biến cố thập giá là lúc Đức Giê-su được tôn vinh.
Sau cùng: Tại sao Đức Giê-su không làm cho người tin hay thân nhân của người tin sống lại như La-da-rô? Đức Giê-su chia sẻ với ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô (và qua đó với độc giả) thân phận phải chết của kiếp người. Thấy La-da-rô ra khỏi mồ là điều vượt quá mong ước của hai chị em Mác-ta, Ma-ri-a và những người chứng kiến. Hai cô chỉ mong cậu em khỏi chết vì bệnh, nhưng giải pháp của Đức Giê-su trước cái chết của La-da-rô đã giải quyết tận gốc rễ của sự chết. Đó là làm cho người tin sẽ “không bao giờ phải chết” (11,26).
Quả thật, tình thương của Đức Giê-su không chỉ dành cho ba chị em ở Bê-ta-ni-a vào thời đó mà còn dành cho độc giả qua mọi thời đại. Ai tin thì không còn phải chết nữa. Điều độc đáo là mặc khải của Đức Giê-su đi xa hơn niềm tin truyền thống là: tin vào sự sống lại ngày sau hết. Nhưng, Đức Giê-su mời gọi “tin” vào sự sống đời đời ngay bây giờ. Dấu lạ La-da-rô sống lại là dấu chỉ về “chết và sống” của người tin. Trước bế tắc của sự chết, bản văn cho độc giả biết phải làm gì để được sống.
Liệu độc giả có dám tin và sống lời Đức Giê-su ở 11,25-26a: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” chăng?
(Dominique NGUYEN: Bài viết tham khảo từ các tài liệu học hỏi Kinh Thánh của các Giáo sư Kinh Thánh của Học Viện Đaminh Việt Nam)
Em, em ghé thăm Tu hội vào giữa trưa của một ngày hè cuối tháng bảy. Những cơn mưa của mùa hè cũng không thể ngăn cản em đến Tu hội để sống và trải nghiệm trong một môi trường khác biệt so với cái thế giới bên ngoài. Và nhất là để em tìm những khoảng lặng về bên Chúa.
Tôi mở cửa chào đón em đến với Foyer, một người lữ hành mà tôi có duyên trao đổi với em qua kênh truyền thông của Tu hội. Và rồi em đã chọn Foyer Phú Dòng để làm một điều gì đó bé nhỏ với em « 24h với Chúa » tại Foyer. Dĩ nhiên là Foyer luôn có những đoàn hội hoặc các tổ chức đến và có chương trình tĩnh tâm riêng, hoặc có những người đến Foyer vì những lý do khác nhau. Nhưng với tôi, có lẽ em là một trường hợp khá ngoại lệ, vì thế tôi viết bài viết này để nói về em.
Em, một người con rời bỏ làng quê ngoài Bắc từ thời cấp hai để bước chân vào Nam để kiếm kế sinh nhai và vì nhu cầu cuộc sống. Thấm thoát trôi qua đã hơn mười năm sống trong miền nam, và nhất là giữa chốn hoa lệ của Sài Gòn nơi nhịp sống luôn hối hả chạy đua từng phút giây. Vậy mà em đã chọn Foyer để tìm khoảng lặng để cân bằng cho cuộc sống nội tâm của em.
Một dấu chấm hỏi khá lớn trong đầu của tôi. Chúa ơi, lần đầu tiên con gặp một bạn trẻ, không có cha mẹ kề bên, không có tham gia một tổ chức nào hướng dẫn hoặc làm chương trình tĩnh tâm, thế mà bạn trẻ ấy tự làm một một ngày rời xa tiếng ồn ào nơi phố thị, rời xa nhịp sống rộn rã, rời xa những giải trí vốn có của một tuổi trẻ để đến một nơi thanh tịch và tìm đến Chúa. Điều này làm cho tôi nhiều cảm xúc đan xen.
Em, em có một sự trưởng thành rất tốt khi em biết kết hợp nhịp sống xô bồ với khoảng lặng cần có, để quân bình con người em. Em vẫn làm điều này trong những năm gần đây, có thể là một cộng đoàn khác đón tiếp em…Có thể em tiếp xúc môi trường xã hội lấm lem bụi mờ, nhưng với đức tin vốn có sẵn trong em vẫn được em vun xới từng ngày. Bởi trong một xã hội hiện tại, người ta tìm về nơi thanh vắng vì chương trình của một cộng đoàn nào đó ; người ta tìm về nơi thanh vắng có thể vì những đau khổ trong cuộc sống đến nỗi không gượng dậy được ; hoặc có chăng sự tự do của một người trẻ thì người ta sẽ tìm đến các trò giải trí của xã hội đương thời, các cuộc vui chơi với chúng bạn hơn là rủ nhau đến nhà thờ. Thậm chí họ đi tham dự thánh lễ hay các hoạt động tôn giáo vì phong trào hơn là vì nội tâm cá nhân.
Tôi cũng có khoảng thời gian sống ở nước ngoài và nhận thấy rằng, đối với người nước ngoài thì họ cũng rất hay tự làm cho mình những cuộc tĩnh tâm cá nhân, nhưng đa số họ cũng đi theo gia đình, hoặc những người lớn tuổi về hưu có thời gian rảnh rỗi nên họ tổ chức đi tham dự tĩnh tâm. Còn với em, em xin nghỉ phép đôi ngày, chỉ đơn giản muốn tìm cho mình góc riêng tư lặng lẽ đối diện với Chúa và kín múc ơn Ngài cho cuộc sống cá nhân em.
Em, tôi không biết đường đời em sẽ thành công hay sẽ như thế nào, tất cả đều trong thánh ý của Chúa dành cho em. Nhưng hành động của em khi đến với Foyer đã khiến tôi thán phục em rất nhiều.
Hãy cứ như vậy em nhé, cứ hãy là chính bản thân em hiện tại và sống quân bình giữa thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm. Tôi tin chắc Chúa sẽ có cách của Ngài để nâng đỡ một người trẻ như em.
Hãy cứ như vậy em nhé, hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đam mê. Ngọn lửa ấy sẽ là động lực để em sống chứng nhân giữa đời. Và biết đâu ngọn lửa ấy lan toả nơi những người trẻ khác nữa, để rồi họ cũng biết tìm về ngọn lửa thắp sáng tâm linh.
Chúc em bước đi bình an và lại vui sống với thế giới bên ngoài, đừng quên cánh cửa Foyer vẫn luôn chào đón em. Hy vọng, tôi sẽ có những lần mở cửa cho em đến với Foyer. Và vượt lên trên sự hy vọng này tôi sẽ còn mở cửa để đón chào những tâm hồn mới muốn tìm những khoảng lặng đời mình, để tìm niềm vui cho tâm hồn giữa cuộc sống bộn bề lo toan. Bởi Foyer luôn là mái ấm cho những tâm hồn tan vỡ khổ đau, là thánh địa lòng thương xót Chúa và là nhà của Thánh tâm Chúa Gieessu.
Thân ái
Foyer de Charrité Phú Dòng
Dẫn nhập
Ngược dòng lịch sử, nhìn vào khoảng lặng về Đức Giê-su đã chết trên thập giá. Sau khi được mai táng, Người rời khỏi sân khấu lịch sử, không ai thấy Người nữa. Ít lâu sau, các môn đệ xuất hiện loan báo Người đã Phục Sinh, ai tin vào Người thì được cứu. Đó là tin vui lớn lao cho nhân loại. Nhưng giữa hai biến cố: Đức Giê- đã chết và khẳng định Người đã Phục Sinh, điều gì đã xảy ra? Trình thuật Tin Mừng Gio-an (Ga 20,1-2) đặt ra câu hỏi: Lúc sáng sớm, khi trời còn tối, Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì? Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng không dễ trả lời, vì bản văn không cho biết bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để viếng xác hay để ướp xác. Tại sao lại đi một mình? Tại sao không vào mộ? v.v…
Bài viết là cái nhìn về khía cạnh trên được trình bày qua hai mục: Trình thuật bốn Tin Mừng và bốn câu hỏi liên quan đến Ga 20,1-2.
Bốn tác giả Tin Mừng đều trình bày đến biến cố Phục Sinh xoay quanh ngôi mộ trống và những cuộc hiện ra. Trích dẫn bốn Tin Mừng về những gì xảy ra sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần cho thấy những nét độc đáo riêng của mỗi Tin Mừng.
Mc 16,1-8: “1 Ngày sa-bát vừa hết, Ma-ri-a Mác-đa-la, Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và Sa-lô-mê mua dầu thơm (arôma) để đến ướp xác (aleiphô) Người (Đức Giê-su). 2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, các bà ra mộ lúc mặt trời mọc. 3 Các bà nói với nhau: ‘Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ (tou mnêmeiou) cho chúng ta đây?’ 4 Và ngước mắt lên, các bà thấy tảng đá đã lăn ra, vì tảng đá ấy rất lớn. 5 Đi vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên (neaniskon) đang ngồi bên phải, mặc áo chùng trắng, và các bà hoảng sợ. 6 Nhưng người ấy nói với họ: ‘Đừng hoảng sợ. Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét đã bị đóng đinh, Người đã được trỗi dậy, Người không ở đây nữa. Hãy xem chỗ người ta đã đặt Người. 7 Các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người và với Phê-rô rằng: ‘Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông’. 8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, các bà run lẩy bẩy và hết hồn hết vía. Họ chẳng nói gì với ai, vì họ sợ hãi.”
Theo Mác-cô, có ba bà đi ra mộ với mục đích rõ ràng: “đến ướp xác Đức Giê-su” (Mc 16,1). Các bà vào trong mộ và thấy một người thanh niên (neaniskos), khác với Lc là “hai người đàn ông” (Lc 24,4), Mt là “một thiên sứ” (Mt 28,2) và Ga là hai thiên sứ (Ga 20,12). Sứ điệp dành cho các bà trong Tin Mừng Nhất lãm gồm hai ý: Đức Giê-su đã trỗi dậy và Người hẹn gặp các môn đệ ở Ga-li-lê.
Những câu cuối Tin Mừng Mác-cô (Mc 16,5-8) có thể gọi là “kết thúc mở”, bởi vì thông điệp người thanh niên trao cho các phụ nữ ở Mc 16,6-7 chưa được thực hiện. Vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, một số phụ nữ ra mộ Đức Giê-su lúc mặt trời mọc và thấy tảng đá trước mộ đã được lăn ra (Mc 16,2-4). Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên đang ngồi bên phải, mặc áo chùng trắng, và các bà hoảng sợ (Mc 16,5). Người thanh niên nói với các bà ở Mc 6-7: “6 Đừng hoảng sợ. Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét đã bị đóng đinh, Người đã được trỗi dậy, Người không ở đây nữa. Hãy xem chỗ người ta đã đặt Người. 7 Các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người và với Phê-rô rằng: ‘Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.’” Tin Mừng Mác-cô kết thúc cách lạ lùng ở 16,8: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, các bà run lẩy bẩy và hết hồn hết vía. Họ chẳng nói gì với ai, vì họ sợ hãi.”
Đoạn văn Mc 16,9-20 thuộc Quy Điển, nhưng được thêm vào sau, vì Mc 16,9-20 không có trong nhiều thủ bản Hy-lạp. Nhiều Giáo phụ không biết đến Mc 16,9-20. Có lẽ không phải Mác-cô soạn thảo 16,9-20, nhưng một người khác viết để bổ sung cho phần kết lạ lùng ở Mc 16,8.
Kết thúc này làm độc giả ngạc nhiên vì câu chuyện chưa thực sự kết thúc, thông điệp chưa được thực hiện. Kiểu kết thúc câu chuyện dở dang này có ý nghĩa: Kết thúc Tin Mừng Mác-cô trở thành lời mời gọi độc giả tiếp nối và thực hiện việc loan báo tin vui Phục Sinh, loan báo Tin Mừng. Nói cách khác, kết thúc Tin Mừng Mác-cô mở ra khởi đầu mới, khởi đầu hành trình rao giảng Tin Mừng. Độc giả được mời gọi thực hiện những gì còn bỏ ngỏ.
Mt 28,1-10: “1 Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon). 2 Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên sứ (aggelos) của Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; 3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4 Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5 Thiên thần (ho aggelos) lên tiếng bảo các phụ nữ: ‘Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. 6 Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7 rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.” 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ (tou mnêmeiou), tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. 9 Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: ‘Chào chị em!’ Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: ‘Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”
Theo Mát-thêu, khi ra mộ sáng sớm hôm ấy có hai bà cùng tên là “Maria”. Việc ra mộ này và có mục đích rõ ràng: “để viếng (theôrêsai) mộ (ton taphon)” (Mt 28,1). Động từ “theoreô” ở lối vô định, nếu dịch sát nghĩa: “để quan sát”, “để xem” mộ. Xảy ra là đất rung chuyển, thiên sứ từ trời xuống lăn tảng đá ra. Thiên thần nói với các bà một câu dài (Mt 24,5-7) với hai ý: Đức Giê-su đã sống lại và sẽ gặp các môn đệ ở Ga-li-lê. Câu chuyện ở mộ kết thúc với chi tiết: các bà vừa sợ, vừa vui chạy về báo tin cho các môn đệ. Mt dùng hai từ có nghĩa “mộ”: “taphos” (28,1) và “mnêmeion” (28,8). Các Tin Mừng khác chỉ dùng từ “mnêmeion”. Mt nói tới một thiên sứ (aggelos), diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết, xuất hiện (28,2-5), trong khi Lc nói đến “hai người đàn ông (andres duo) y phục sáng chói” (Lc 24,4). Đoạn văn tiếp theo (Mt 28,9-10) cho biết các bà đang trên đường về báo tin cho các môn đệ thì Đức Giê-su Phục Sinh gặp các bà và nhắc lại sứ điệp của thiên sứ: báo cho các môn đệ đến Ga-li-lê gặp Người (Mt 28,10).
Lc 24,1-12: “1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ (tou mnêmeiou). 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông (andres duo) y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: ‘Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.” 8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin. 12 Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.”
Theo Lu-ca, bản văn cho biết là “các bà” nhưng đến cuối đoạn văn mới cho biết tên ba bà cùng với các bà khác nữa (Lc 24,10). Các bà “mang theo dầu thơm (arôma) đã chuẩn bị sẵn” (Lc 24,1), hiểu ngầm là để ướp xác Đức Giê-su. Nhưng Lu-ca không nói ra điều này nhằm nhấn mạnh chi tiết “mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn”. Dầu thơm này đã được các bà chuẩn bị ngay sau khi táng xác Đức Giê-su, như người thuật chuyện cho biết ở Lc 23,56: “Các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền”. Các Tin Mừng khác (Mc, Mt, Ga) thì không có chi tiết chuẩn bị dầu thơm này.
Ga 20,1-2: “1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ (to mnêmeion) lúc sáng sớm, khi trời còn tối, bà thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ (ek tou mnêmeiou). 2 Bà liền chạy đến với Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác – người Đức Giê-su thương mến –, bà nói với các ông: ‘Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.’”
[Ga 20,3-10. Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su thương mến đi ra mộ]
Ga 20,11-18: “11 Còn Ma-ri-a đứng gần bên mộ, ở phía ngoài, mà khóc. Bà ấy vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 bà thấy hai thiên thần (duo aggelous) mặc áo trắng ngồi đó, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân, ở nơi đã đặt thi hài Đức Giê-su. 13 Các vị này nói với bà: ‘Này bà, tại sao bà khóc?’ Bà ấy nói với các vị: ‘Người ta đã lấy Chúa của tôi, và tôi không biết họ đặt Người ở đâu.’ 14 Nói xong điều đó, bà ấy quay lại phía sau và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà ấy không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà: ‘Này bà, tại sao bà khóc? Bà tìm ai?’ Tưởng đó là người làm vườn, bà ấy nói với Người: ‘Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, xin nói cho tôi biết ông đặt Người ở đâu, tôi sẽ mang Người về.’ 16 Đức Giê-su nói với bà: ‘Ma-ri-a.’ Bà ấy quay lại và nói với Người bằng tiếng Híp-ri: ‘Ráp-bu-ni’ (nghĩa là ‘Thưa Thầy’). 17 Đức Giê-su nói với bà ấy: ‘Đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Cha. Nhưng hãy đi đến với anh em của Thầy và nói với họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em’.’ 18 Ma-ri-a Mác-đa-la đến báo cho các môn đệ rằng: ‘Tôi đã thấy Chúa.’ Và Người đã nói với bà ấy những điều đó.”
So với các Tin Mừng khác, phần mở đầu trình thuật Phục Sinh trong Tin Mừng Gio-an trình bày rất ngắn gọn trong 2 câu (20,1-2) với bốn chi tiết mới so với các Tin Mừng Nhất Lãm: (1) thời gian được làm rõ và nhấn mạnh: “lúc sáng sớm, khi trời còn tối”. Cụm từ “khi trời còn tối” là cụm từ chỉ có trong Tin Mừng Gio-an. (2) Chỉ một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đi ra mộ. (3) Bản văn không cho biết bà ra mộ để với mục đích gì. (4) Khi thấy tảng đá đã lăn ra, chị không vào mộ mà lại chạy đi nói với Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến ở 20,2b: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.” Điều lạ là bà không nói “điều bà thấy” mà nói “điều bà nghĩ” (giả thiết là thế). Tại sao ra mộ một mình (số ít) mà khi kể cho hai môn đệ lại xưng là “chúng tôi” (số nhiều)?. Chi tiết này làm cho độc giả khi đi sâu vào bản văn gây khó hiểu.
Hai trình thuật về (1) thiên sứ (thanh niên, đàn ông) xuất hiện ở mộ trong Tin Mừng Nhất Lãm và (2) Đức Giê-su Phục Sinh gặp các phụ nữ đang trên đường từ mộ về báo tin cho các môn đệ ở Mt 28,9-10, song song với trình thuật trong Tin Mừng Gio-an ở (1) Ga 20,11-13 cho biết Ma-ri-a Mác-đa-la khóc ở mộ và đối thoại với “hai thiên thần (duo aggelous) mặc áo trắng ngồi đó” (Ga 20,12) ; và ở (2) Ga 20,14-18 nói về Đức Giê-su Phục Sinh tỏ mình ra cho chị kèm theo lời Đức Giê-su nhắn gửi các môn đệ (20,17). Nội dung lời này là riêng của Ga, khác với lời Đức Giê-su trong Tin Mừng Nhất Lãm. Chi tiết Phê-rô chạy ra mộ ở Lc 24,12a, song song với Ga 20,3-10: trình thuật Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su thương mến đi ra mộ. Sau khi quan sát tổng quát tình trạng bản văn trong bốn Tin Mừng có nhiều chi tiết thú vị. Nhưng bài viết này, người viết trình bày chi tiết hơn với bản văn của Tin Mừng Gio-an qua bốn câu hỏi.
Cách kể chuyện lạ lùng trong Ga 20,1-2 đặt ra cho độc giả nhiều câu hỏi, phần sau gợi ý trả lời bốn câu: (1) Tại sao có chi tiết “trời còn tối”? (2) Tại sao không cho biết ra mộ để làm gì? (3) Tại sao Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ một mình? (4) Tại sao thấy một đàng kể lại một nẻo?
Lúc Ma-ri-a Mác-đa-la đi ra mộ là “sáng sớm, khi trời còn tối”. Đã “sáng” nhưng vẫn còn “tối”. Chi tiết này cho biết là vào thời điểm rất sớm. Hình như Ma-ri-a thao thức, chờ trời sáng để đi ra mộ sớm bao nhiêu có thể được. Đồng thời, bối cảnh trình thuật cho phép hiểu “trời còn tối” theo nghĩa biểu tượng. “Trời còn tối” gợi đến “bóng tối trong lòng” bà. Bóng đêm của sự chết vẫn còn đè nặng tâm hồn Ma-ri-a Mác-đa-la, lòng trí của bà vẫn còn ở trong bóng tối của biến cố Thương Khó. Đó là lý do khiến Ma-ri-a không nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh trong trình thuật tiếp theo (Ga 20,11-18). Chị đã khóc và chỉ mong tìm lại xác Đức Giê-su vì nghĩ người ta lấy mất xác Chúa (Ga 20,11). Ở Ga 20,1, chi tiết “tối trời” gợi đến “tối lòng” cho thấy Ma-ri-a hoàn toàn ở về phía con người, biến cố Đức Giê-su chết đang ám ảnh lòng trí của bà. Có thể hiểu, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, thì lòng Ma-ri-a cũng tối tăm, ảm đạm, đau buồn vì Thầy mình đã chết.
Tóm lại, chi tiết “trời còn tối” gợi lên hai điều độc đáo: Thứ nhất, là lòng gắn bó của Ma-ri-a với Đức Giê-su, bà đi ra mộ rất sớm. Tất cả những gì bà làm đã bộc lộ lòng mến của bà dành cho Thầy. Thứ hai, điều này gợi ý đến bóng tối về cái chết của Thầy trong lòng bà, bà không nghĩ gì khác ngoài cái chết, và xác chết của Thầy.
Bản văn không cho biết Ma-ri-a Mác-đa-la ra mộ để làm gì. Bà không mang dầu thơm ra mộ để ướp xác Đức Giê-su như trong Tin Mừng Mác-cô hay Lu-ca. Theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã được an táng đúng theo tục lệ chôn cất của người Do Thái. Thi hài Đức Giê-su đã được “quấn bằng băng vải tẩm thuốc thơm” (19,39) với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương mà Ni-cô-đê-mô mang tới (19,40). Như thế, việc không cần “mang dầu thơm ra ướp xác Đức Giê-su” nữa vì đã làm ở Ga 19,39-40 rồi.
Bản văn cũng không nói Ma-ri-a “đi viếng mộ” như trong Tin Mừng Mát-thêu. Sự kiện Tin Mừng Gio-an thuật lại việc Ma-ri-a đến mộ mà không nói rõ lý do, giúp người đọc nhận ra một lý do sâu xa hơn. Nét độc đáo nơi mạch văn cho phép hiểu về lý do là: Ma-ri-a ra mộ chỉ đơn giản là ước mong gặp lại Thầy, được ở bên cạnh Thầy, dù Thầy đã chết.
Khác với Tin Mừng Nhất Lãm, theo Tin Mừng Gio-an chỉ có một mình Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ. Điều này ăn khớp với những điểm thần học mà Tin Mừng Gio-an muốn trình bày. Việc Ma-ri-a Mác-đa-la đến mộ một mình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ và trao đổi riêng giữa Đức Giê-su Phục Sinh với bà trong đoạn văn tiếp theo (Ga 20,11-18). Đoạn văn này quan trọng vì mô tả cách thức và điều kiện để con người có thể nhận ra Đấng Phục Sinh và cách thức Đấng Phục Sinh bày tỏ Người ra cho con người.
Vậy Ma-ri-a Mác-đa-la trở thành nhân vật biểu tượng. Hành trình bà nhận ra Đấng Phục Sinh cũng là hành trình của độc giả qua mọi thời đại. Hai câu mở đầu Tin Mừng Phục Sinh ở Ga 20,1-2 mời gọi độc giả cùng sống với tâm trạng của bà, gắn bó với Đức Giê-su và bày tỏ lòng mến đối với Thầy cho dù lòng mình vẫn tối tăm mù mịt. Lòng mến dành cho Thầy là bước khởi đầu nền tảng để nhận ra người mình thương mến đã Phục Sinh.
Điều lạ lùng trong bản văn là Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” (Ga 20,1b), nhưng bà lại không kể “điều mình thấy” mà kể về “điều mình nghĩ”. Bà nói với Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến ở 20,2: “Người ta đã lấy Chúa khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu.” Lời này gợi lại trình thuật Mt 28,12-13: “Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn và bảo: ‘Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác’.”
Có thể nói cách hài hước rằng, trong Tin Mừng Gio-an ý tưởng “lấy trộm xác Đức Giê-su” là của Ma-ri-a Mác-đa-la. Còn trong Tin Mừng Mát-thêu là các thượng tế mua chuộc quân lính để họ tung tin không đúng sự thật (đang “ngủ” mà “thấy” các môn đệ lấy xác!) và “câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay” (Mt 28,15b). Điểm khác là Ma-ri-a Mác-đa-la giả thiết là “người ta” (Ga 20,2) hay là “người làm vườn” (Ga 20,15) đã lấy Chúa khỏi mộ. Còn điều bịa đặt của các thượng tế và kỳ mục là “các môn đệ của Đức Giê-su” đã lấy trộm xác (Mt 28,13).
Có thể độc giả ngạc nhiên là chính Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã bày tỏ lòng mến và lòng gắn bó với Đức Giê-su, lại đưa ra giả thuyết “bị lấy trộm xác”, trong khi điều chị thấy chỉ là “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ”. Điều này mang ý nghĩa thần học quan trọng về biến cố Phục Sinh. Thật vậy, không chỉ các thượng tế và kỳ mục là những người không tin, mà kể cả Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ, không ai nghĩ đến việc Đức Giê-su đã Sống Lại. Điều mọi người nghĩ tới khi đứng trước ngôi mộ trống là “người ta đã lấy Chúa khỏi mộ.” Ma-ri-a Mác-đa-la xác quyết về giả thuyết của mình đến nỗi bà đã hỏi chính Đức Giê-su Phục Sinh về xác chết của Người, vì bà tưởng Đấng Phục Sinh là người làm vườn (x. Ga 20,15).
Vậy nhận ra Đức Giê-su đã Phục Sinh là một ơn ban từ trên. Chính Đức Giê-su đã tỏ ra cho Ma-ri-a Mác-đa-la và các môn đệ biết Người đã sống lại, còn chính họ không thể tự mình nhận biết được. Nhưng làm thế nào để nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh? Bản văn cho biết là hãy sống những gì rất “người”, “rất nhân bản” như Ma-ri-a Mác-đa-la đã sống, đã làm, đã thấy, đã nghĩ và đã nói ở Ga 20,1-2, đặc biệt là lòng mến, sự gắn bó mà bà đã dành cho Thầy.
Kết luận
Có thể thấy rằng, bản văn của Tin Mừng Gio-an ngắn gọn nhưng lại cho thấy nhiều điểm độc đáo trong bản văn Gio-an cũng như những hàm ẩn thần học phong phú. Độc giả không đi tìm thực tế lịch sử về biến cố đã xảy ra. Điều này vượt khỏi khả năng chủ quan (độc giả không nhắm nghiên cứu lịch sử) và khách quan (độc giả không có tài liệu lịch sử đúng nghĩa về biến cố), điều độc giả có trong tay là “ý nghĩa của biến cố” hay “cách hiểu biến cố” qua bản văn Tin Mừng. Mỗi Tin Mừng thuật lại một cách khác nhau để chuyển tải ý nghĩa phong phú của mặc khải qua biến cố đã xảy ra. Mục đích của độc giả là tìm ra ý nghĩa câu chuyện dành cho mình qua các tình tiết và cách thức kể chuyện. Chẳng hạn, Ga 20,1-2 gợi ra cho ta bốn ý tưởng:
1) Tin Mừng Gio-an đưa vào chi tiết “trời còn tối” vừa để độc giả thấy sự gắn bó và lòng mến của Ma-ri-a Mác-đa-la dành cho Đức Giê-su, vừa thoáng cho thấy bà đang bị bóng tối của sự chết đè nặng trong lòng.
2) Bản văn không cho biết lý do Ma-ri-a đi ra mộ để độc giả nhận ra lý do sâu xa hơn: tình yêu dành cho Thầy và ước mong được hiện diện với Thầy. Qua nhân vật Ma-ri-a, độc giả được mời gọi sống như thế để có cơ may gặp Đức Giê-su Phục Sinh.
3) Ma-ri-a đến mộ một mình chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ riêng với Đức Giê-su trong đoạn văn 20,11-18. Chị trở thành biểu tượng cho gặp gỡ riêng tư giữa độc giả và Đức Giê-su Phục Sinh. Có thể độc giả đã nghĩ như bà: người ta đã lấy xác Đức Giê-su chứ làm gì có chuyện Sống Lại. Chỉ khi dám nghĩ, dám sống với lòng mến như bà, thì khi Đấng Phục Sinh tỏ cho biết, độc giả sẽ nhận ra Người.
4) Ma-ri-a Mác-đa-la thấy “tảng đá đã bị lấy ra khỏi mộ” nhưng lại nói “người ta đã lấy Chúa khỏi mộ” cho thấy biến cố Đức Giê-su Phục Sinh vượt ra ngoài, vượt lên trên lịch sử. Không ai dám nghĩ tới, cho dù trong Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã báo trước ba lần là Người sẽ Sống Lại. Lối hành văn này đề cao tính xác thực của biến cố Phục Sinh. Bởi vì ngay cả những người thân cận với Đức Giê-su cũng bất ngờ trước biến cố này. Phê-rô thì “rất đỗi ngạc nhiên” trước ngôi mộ trống (Lc 24,12c), một số môn đệ khác thì “hoài nghi” ngay cả khi đang đối diện với Đức Giê-su Phục Sinh (Mt 24,17)!
Qua những điểm trên cho thấy, biến cố Phục Sinh không để lại dấu vết trong lịch sử. Không ai có bằng chứng hiển nhiên về biến cố này. Người Ki-tô hữu tin Đức Giê-su đã Sống Lại là nhờ lời chứng của các Tông Đồ thuật lại trong các Tin Mừng. Đến lượt người tin, họ được mời gọi sống và làm chứng, để người khác tin Đức Giê-su đang sống, đang ở với và đang hoạt động nơi người tin và trong thế giới. Nội dung bài viết chỉ là những gợi ý để độc giả tiếp tục đọc bản văn, suy tư và tìm được từ bản văn những điều thú vị, có ý nghĩa, nghĩa là đọc chuyện xưa để thưởng thức và thêm sức sống cho hôm nay.
(Dominique NGUYEN: Bài viết tham khảo từ các tài liệu học hỏi Kinh Thánh của các Giáo sư Kinh Thánh của Học Viện Đaminh Việt Nam)
Dẫn nhập
Ecclesia de Eucharistia là một Thông điệp bởi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, được xuất bản ngày 17 tháng 04 năm 2003. Theo thông lệ, câu mở đầu của thông điệp được lấy từ tiếng Latinh“ECCLESIA DE EUCHARISTIA vivit” dịch là “Giáo hội từ Bí tích Thánh Thể”, và trong bản tiếng Anh: “The Church draws her life from the Eucharist” dịch là “Giáo hội lấy sự sống của mình từ Bí tích Thánh Thể”. Còn đối với bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin thì câu này có nghĩa là “Giáo hội sống nhờ Thánh Thể”. Nhưng dù cho bất kì ngôn ngữ gì thì ý nghĩa trọng tâm và thảo luận của Thông điệp này là nhấn mạnh đến ý nghĩa vô cùng to lớn của Thánh Thể trong rất nhiều khía cạnh, nhất đời sống đức tin của người tín hữu khi đứng trước Thiên niên kỷ thứ ba.
Thông điệp Ecclesia de Eucharistia, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II muốn khơi dậy lại lòng mến mộ Thánh Thể cũng như cảm tạ tình yêu Thiên Chúa nơi tất cả mọi người Kitô hữu, mà tâm tình này thể hiện cách cụ thể và sống động khi Giáo hội cùng nhau quy tụ để cử hành Bí tích Thánh Thể. Đồng thời, Thông điệp nêu rõ hơn vai trò của Thánh Thể trong đời sống Giáo hội phải là trung tâm của đời sống Giáo hội, vì thế Giáo hội sống nhờ Thánh Thể.
Bài viết này bàn luận về Thông điệp Ecclesia de Eucharistia trong khía cạnh nói về Thánh lễ theo cái nhìn của Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, chứ không không phải bản tóm gọn về Thông điệp này. Bởi trong Thông điệp này có rất nhiều khía cạnh thần học mà Đức Giáo Hoàng nói tới như chiều kích Thánh thể làm nên Giáo hội; Đặc tính tông truyền của Bí tích Thánh Thể đối với Giáo hội; Phẩm giá của việc cử hành Thánh Thể; Nơi trường học của Đức Maria, người nữ “Thánh Thể”… Dưới đây, chúng ta chỉ bàn về ba khía cạnh cách vắn tắt về Thánh Thê làm nền tảng khi bước vào Thánh lễ nổi bật qua Thông điệp Ecclesia de Eucharistia:
+ Thánh lễ là một Hy tế
+ Thánh lễ là sự hiện diện thực sự của Đức Kitô
+ Thánh lễ là bàn tiệc hiệp thông linh thánh
Ngay trong chương I, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia nhắc lại nguồn gốc và thời điểm của việc thiết lập Thánh Thể “Trong đêm bị nộp, Đức Giêsu” (1Cr 11,23) đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Ngài (xc. GHTT số 11). Vì thế, Bí Tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi biến cố đó, nhưng còn là tái hiện mang tính bí tích của biến cố ấy. Đó là hy tế Thập Giá được tiếp tục trong thời gian[1].
Thông điệp nhấn mạnh: “Thánh Lễ vừa là lễ tưởng niệm hy tế thập giá để lưu truyền muôn đời, vừa là bàn tiệc thánh để thông hiệp với Mình và Máu Chúa, cả hai gắn liền và không tách rời nhau. Chính vì Thánh Lễ hiện tại hóa hy tế thập giá, cho nên không thêm bớt gì mà cũng không nhân lên được. Những gì được lặp lại, chính là việc cử hành bằng tưởng niệm, việc “trình bày bằng tưởng niệm” (memorialis demonstratio) của hy tế, nhờ đó hy tế cứu độ duy nhất và dứt khoát của Chúa Kitô được hiện diện trong thời gian. Vì lẽ đó, Giáo Hội liên tục sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải bằng một kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế nầy trở nên hiện diện, hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến (xc. GHTT số 12).
Quả thật, đối với người tín hữu hai từ “Hy Tế” thật khó để hiểu hết được ý nghĩa của nó. Bởi đối với người Kitô hữu thì họ không tham dự Thánh lễ như những người Do-Thái xưa với những con vật được mang tới Thánh điện cho các tư tế sát tế, mổ thịt, thiêu cháy để dâng lên Thiên Chúa. Nhưng Thánh lễ lại là một Hy Tế thực sự, Hy Tế của Đức Giêsu – Kitô, Con Thiên Chúa. Đấng nhờ sự chết trên thập giá, đã dâng lên Chúa Cha đời sống mình, như một lễ vật toàn vẹn và cứu độ trần gian. Giáo lý Công giáo số 1367 dạy rằng: “Hy tế của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất […].Vì trong hy tế thần linh được cử hành trong Thánh lễ, chính Đức Kitô Đấng đã tự hiến một lần bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay cũng được hiến dâng và được sát tế mà không đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội”.
Trong khung cảnh Lễ Vượt Qua, chính Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói: “đây là mình Thầy hiến tế vì anh em”, và Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “đây là máu Thầy, máu đổ ra vì anh em”[2]. Người kết thúc bữa Tiệc ly bằng cách truyền cho các Tông đồ cử hành bữa ăn này như một tưởng nhớ diễn ra trong phụng vụ: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”[3]. Rõ ràng Đức Giêsu đã ám chỉ Mình và Máu Người có hàm ý là hy tế. Điều này gợi lên nghi lễ hiến tế của người Do Thái, trong đó thân xác con vật được hiến dâng và máu nó sẽ đổ ra khi bị sát tế. Vì thế, trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã báo trước hy tế của Người trên thập giá khi ám chỉ mình và máu Người được dâng hiến, tựa như chiên Vượt qua bị sát tế.
Vì thế, chính thông điệp mà Đức Giêsu đã nói: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”, Người truyền cho các Tông đồ hiện tại hoá hy lễ Mình và Máu Người trong bữa Tiệc ly như là việc tưởng nhớ theo Kinh Thánh. Thật vậy, Mình và Máu Đức Giêsu nói đến trong bữa Tiệc ly chính là Mình và Máu của Người được dâng hiến trên đồi Canvê, và đây là điều được hiện tại hoá cho chúng ta trong Thánh lễ. Cho nên, Thánh lễ chính là Hy tế.
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II mượn lại cách nói của Giáo Hoàng Phaolô VI khi nói đến sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh lễ là sự hiện hiện “đích sự” hoặc “thực sự”. Đồng thời, ngài cũng nhắc lại giá trị của Công Đồng Triđentino nói về Thánh Thể: “Nhờ việc truyền phép bánh và rượu, việc thay đổi tất cả bản thể của bánh thành bản thể của Mình Chúa Kitô, Chúa chúng ta và sự thay đổi tất cả bản thể của rượu thành bản thể của Máu Ngài; sự thay đổi nầy, Giáo hội Công Giáo gọi một cách đúng đắn và chính xác là sự biến bản thể”[4].
Quay ngược về lịch sử về những giáo huấn của Đức Giêsu giảng về Thánh Thể, chính Người khẳng định: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,53-56). Cho nên trong Thánh lễ, Thánh Thể thực sự là một mầu nhiệm đức tin, mặc dù giác quan chúng ta không thể thấy, nhưng đức tin đảm bảo cho chúng ta rằng chính Đức Kitô hiện diện thực sự trong Thánh Thể.
Đúc kết từ những gì Đức Giêsu truyền dạy và truyền thống của Giáo hội, Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “mặc dầu Chúa Kitô hiện diện giữa dân Người theo nhiều cách – trong người nghèo, trong Lời Người, trong các bí tích, trong lời cầu nguyện của hai hay nhiều người họp nhau nhân danh Người, nhưng Người hiện diện trong Thánh Thể một cách độc nhất vô nhị. Bởi vì, Thánh Thể thực sự chứa đựng Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Đức Giêsu Kitô. Qua Thánh Thể, “Chúa Kitô toàn thể và trọn vẹn, vừa là Thiên Chúa vừa là con người hiện diện cách chắc chắn” (xc. GLCG số 1373-1374). Và Giáo lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định trong Thánh lễ, khi linh mục đọc những lời của Đức Giêsu truyền dạy vào lúc truyền phép, thì bánh và rượu trên bàn thờ được biến đổi thành Mình và Máu Chúa Kitô. Thuật ngữ được thần học sử dụng để nói về sự biến đổi này là transubstantiatio – biến đổi bản thể, cho thấy nhờ việc thánh hiến bánh và rượu “đã diễn ra sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình Thánh Đức Kitô, Chúa chúng ta, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể Máu Thánh Người” (xc. GLCG số 1376).
Qua những gì bàn luận trên, cùng với những suy tư của Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đúc kết từ những kinh nghiệm của những truyền thống của Giáo hội, một lần nữa cho thấy Thánh lễ là sự hiện hiện thực sự của Đức Kitô. Đấng là Emmanuel theo Kinh Thánh, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Và Người tiếp tục ở chúng ta trong mỗi Thánh lễ được cử hành trên khắp toàn cầu. Đây là điều kinh ngạc nhất trong vũ trụ xảy ra trong mỗi Thánh lễ: chính Con Thiên Chúa ngự xuống nơi bàn thờ và cư ngụ giữa chúng ta. Nên vì thế, Thánh lễ còn theo thông điệp của Ecclesia de Eucharistia còn mang một ý nghĩa mà ta sẽ đề cập dưới đây.
III. Thánh lễ là bàn tiệc hiệp thông linh thánh
Từ Thánh lễ hay Thánh Thể là một “Hy Tế” mà ta nói đến trong phần I, Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II chuyển sang dùng từ “bữa tiệc” khi nói về Thánh Thể: “Thánh Thể đích thực là một bữa tiệc, trong đó Chúa Kitô tự hiến làm của ăn”[5].
“Bữa tiệc”, đây là từ thật ý nghĩa khi Đức Giáo Hoàng sử dụng để nói về Thánh Thể, đồng thời ngài móc nối giữa việc bữa tiệc thì cần có của ăn, mà của ăn của bữa tiệc đó chính là Chúa Kitô, là Mình và Máu của Người trong tấm bánh bé nhỏ trên bàn thờ. Đồng thời, Thông điệp nhắc lại của ăn này không phải là do Đức Giáo Hoàng đặt ra nhưng của ăn này do chính Đức Giêsu đã nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53); “Thịt tôi là của ăn thật, và máu tôi là của uống thật” (Ga 6,55). Và hiệu quả của “bữa tiệc” là việc mang lại ơn cứu độ của hy tế được thực hiện sung mãn trong việc hiệp lễ, khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa. Thánh Thể đích thực là một bữa tiệc, trong đó Chúa Kitô tự hiến làm của ăn. Qua việc thông hiệp vào Mình và Máu Ngài, Chúa Kitô cũng chuyển thông cho ta Thánh Thần của Ngài. Trong sách lễ Rôma, phần kinh nguyện Thánh Thể III, chủ tế cầu xin : “Khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được dầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con được trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (xc. EE số 16-17).
Chính Thánh Phaolô đã khẳng định sự kết hợp qua việc chia sẻ Mình và Máu của Đức Kitô trong thư gửi Giáo đoàn Côrintô: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,16-17). Và Giáo hội Công giáo nhận ra và xác tín rằng: Thánh lễ là chóp đỉnh của việc tôn thờ thánh lễ. Điều này thể hiện rõ qua Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo: “Việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng đến sự hiệp nhất mật thiết của các tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ là lãnh nhận chính Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta[6]”.
Thật vậy, Hiệp lễ chính là lúc thể hiện sự kết hợp sâu xa nhất mà mỗi tín hữu có được cùng với Thiên Chúa. Vì trong giây phút ấy, Thiên Chúa đến với nhân loại cách bí tích ngay trên bàn thờ trong Thánh lễ, và Ngài vẫn hiện diện với chúng ta nơi nhà tạm và cả bên ngoài Thánh lễ. Đặc biệt, chính giây phút khi chúng ta rước lễ, là chính lúc Chúa đi vào lòng chúng ta và kết hợp với linh hồn chúng ta cách thâm sâu nhất.
Thông điệp nói đến sự quan trọng của giây phút khi mỗi người đang rước Chúa vào lòng, giây phút ấy cũng không khác gì lúc Đức Maria cưu mang Đấng Tạo Hóa và Đấng cứu độ trong lòng mình. Cách thức mà mỗi người lãnh nhận Thiên Chúa nơi cung lòng mang tính cách bí tích và huyền nhiệm (xc. EE số 55). Vì thế, mỗi chúng ta cần ý thức giây phút trọng đại này mà chuẩn bị tâm hồn của mình sao cho xứng đáng, vì những hiệu quả của Thánh Thể mang lại cho mỗi người thật không gì diễn tả được. Vì khi lãnh nhận Thánh Thể trong lòng mình, chúng ta được sống kết hợp với Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, gắn bó mật thiết với sự sống vĩnh cửu không làm cho những người tin Chúa xa lánh trần gian mà trái lại càng thúc đẩy họ góp phần vào việc xây dựng xã hội trấn gian, như lời trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng: “Một tia sáng của thành Giê-ru-sa-lem trên trời xuyên qua các đám mây bao phủ lịch sử chúng ta và chiếu sáng con đường chúng ta đi. Vinh quang đó thúc đẩy bước tiến của chúng ta trong lịch sử, làm nẩy sinh niềm hy vọng sống động trong sự tận tâm hàng ngày của mỗi người đang đảm trách các nghĩa vụ của mình. Điều đó không làm yếu đi mà càng thôi thúc ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với trần gian.[7]”
Kết luận
Thông điệp Ecclesia de Eucharistia còn bàn rất nhiều khía cạnh về Thánh Thể, như nói về tương quan giữa Thánh Thể với Giáo hội, cũng như phẩm giá của việc cử hành Bí tích Mầu nhiệm này… Nhưng trong bài viết này như đã đề cập ở phần mở đầu là chúng ta chỉ dừng lại ở cái nhìn của Đức Giáo Hoàng bàn về ý nghĩa của Thánh lễ. Ý nghĩa quan trọng và làm nền tảng nổi bật qua ba vấn đề: Thánh lễ là một Hy tế; Thánh lễ là sự hiện diện thực sự của Đức Kitô; và Thánh lễ là bàn tiệc hiệp thông linh thánh. Ba ý nghĩa này cho thấy tầm quan trọng của Thánh lễ để mọi người tín hữu cần nhận ra và ý thức hơn bản thân mình trước khi bước vào cử hành Thánh, để đánh tan đi những bóng tối trên phương diện lý thuyết và những cách thực hành không thể chấp nhận được.
Thông điệp Ecclesia de Eucharistia được Đức Giáo Hoàng tổng hợp rất nhiều tín lý được đúc kết từ kho tàng đức tin của Giáo hội, và kênh qua những kinh nghiệm của chính cuộc đời mình lãnh nhận ơn lành của Thánh Thể. Và Thông điệp như là một di sản mà ngài để lại cho mỗi người chúng ta cần biết nhận ra những giá trị mà Thánh Thể mang lại. Nhưng trước tiên là cần hiểu ý nghĩa và vai trò của Thánh lễ mà chúng ta vừa bàn luận trên đây.
Vì thế, khi bàn về Thánh lễ mà cụ thể là Thánh Thể, chúng ta không chỉ nói xuông nhưng là phải sống và phải cảm nếm, như Thánh Augustinô nói: “Nếu không biết, hãy nếm thử” (CCL 38, 290). Và chính khi cảm nếm Thánh Thể, chúng ta sẽ thấy Thánh Thể chính là sự sống, là tình yêu, vì Thánh Thể chính là Đức Kitô tự hiến mình cho chúng ta thể hiện nơi Bí tích. Dù bên ngoài, các giác quan chúng ta thấy bánh và rượu, nhưng khi lãnh nhận thì chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô, với tất cả thân xác, linh hồn và thần tính, chúng ta đón nhận Đức Kitô, Đấng đã yêu mến chúng ta và đã chịu chết vì chúng ta (x. Gl 2,20).
[1] X. Cđ. Vat. II, Hiến chế Phụng vụ thánh số 47: Salvator noster… Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể bằng Mình Máu Ngài, để nhờ đó, Hy Tế Thập Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến…”.
[2] X. Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể Mt 26,26-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25.
[3] Lc 22,19.
[4] X. Thông điệp Ecclesia de Eucharistia số 15.
[5] Thông điệp Ecclesia de Eucharistia số 16.
[6] Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1382.
[7] Anrê Đỗ Xuân Quế O.P, “Giới Thiệu Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia – Giáo Hội Bàn Về Thánh Thể,” Huynh Đệ Hiệp Thông Chia Sẻ. Truy cập ngày 8-11-2021, https://huynhdehiepthongchiase2011.wordpress.com/2011/12/30/gi%E1%BB%9Bi-thi%E1%BB%87u-thong-di%E1%BB%87p-ecclesia-de-eucharistia-giao-h%E1%BB%99i-v%E1%BB%81-thanh-th%E1%BB%83/.
Con người chẳng ai là thập toàn thập mỹ. Lắm lúc trong cuộc sống của chúng ta vướng mắc nhiều lỗi lầm và đi sai đường lạc lối. Đôi khi chúng ta tự nhận ra và biết cách quay đầu, nhưng đôi khi chúng ta cần đến một người nào đó hướng dẫn và chỉ cho cách quay trở về. Trong đời sống thường ngày và trong đời sống tâm linh đều có hai khía cạnh này. Đoạn Tin Mừng Mt 18,12-14 mà chúng ta phân tích dưới đây được xem như một việc làm cụ thể của một người mục tử. Ở đây, một lần nữa ta lại thấy một sự điên rồ mà Đức Giê-su muốn chia sẻ. Và đối với tư tưởng của nhiều nhà thần học hay những quan niệm của nhiều người thì các hành động của Đức Giê-su là những hành động điên rồ toàn tập. Nói như thế để chúng ta thừa nhận rằng hành động của Đức Giê-su mang tính cách trên sự hiểu biết của con người, vì những hành động ấy thường đi ngược các quan niệm đã bị đóng khung vốn có.
Dụ ngôn con chiên lạc là một minh chứng cho hành động điên rồ này của Đức Giê-su. Khi Ngài kể về một con chiên đi lạc trong bầy 100 con, và người mục tử đã bỏ lại 99 con mà đi tìm con bị bị lạc đàn. Và đây cũng chính là ý nghĩa mà Đức Giê-su muốn trao gửi cho cộng đoạn và những người phụ trách (người mục tử, địa vị và chức tước cao, những người đại diện cho Giáo Hội trần gian) về cách ứng xử đối với những người sai lầm lạc lối, những người bé mọn.[1] Đây cũng là một thách đố đối với những người mục tử ngày hôm nay. Và bài viết này, chúng ta tìm hiểu hơn về sứ vụ của người mục tử, mà Đức Giê-su mời gọi và hướng dẫn cho họ trên con đường trở nên người mục tử như lòng Chúa ước mong. Qua Các Sách Tin Mừng, ta nhận ra Ngài là hình ảnh của người mục tử chân chính, đã từ một Ngôi vị Thiên Chúa, xuống thế làm người để mặc lấy xác phàm và mang tội để cứu chuộc con người. Và Ngài đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Ngài đã xuống thế gian để tìm kiếm dù duy nhất một con chiên nhỏ bé đi lạc, nghĩa là cho loài người đang xa rời sự hiệp nhất.[2]
Đoạn Tin Mừng ngắn Mt 18,12-14 là một phần nhỏ nằm trong bài diễn từ của Đức Giê-su về Giáo Hội, chương 18[3]. Chương này gồm những lời giảng của Đức Giê-su liên quan đến đời sống cộng đoàn các môn đệ, để trả lời câu hỏi: “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” (Mt 18,1-4). Sau đó, Đức Giê-su dặn dò các môn đệ: “Đừng làm cho người ta sa ngã” (Mt 18,5-9), “Đừng khinh thường những kẻ bé mọn” (Mt 18,10-11). Tiếp đến là dụ ngôn “Một con chiên bị lạc trên núi” (Mt 18,12-14), sau đó là giáo huấn về sửa lỗi anh em (18,15-18).v.v… Như thế, bối cảnh đoạn văn Mt 18,12-14 là những giáo huấn của Đức Giê-su về đời sống và cách xử sự trong cộng đoàn Hội Thánh, cụ thể là cộng đoàn Mát-thêu. Đề tài chính trong Mt 18,12-14 là muốn nói đến vai trò của mục tử đối với đàn chiên. Dĩ nhiên, đề tài về mục tử và đàn chiên không phải là duy nhất trong Tin Mừng Mát-thêu. Nhưng, Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 15,1-7) cũng nói đến về hai hình ảnh này (mục tử và con chiên lạc) với góc nhìn về lòng thương xót của Thiên Chúa, nghĩa là dụ ngôn này để biện minh cho lý do việc Đức Giê-su ngồi chung bàn với tội nhân. Còn với Tin Mừng Mát-thêu thì lại ở một góc nhìn khác về mặt giáo huấn, hay tư tưởng mang một góc nhìn rộng hơn, đó là ngay cả những những người đi lạc đường, cũng cần phải đi tìm về.[4] Cho nên đoạn Tin Mừng nằm trong diễn từ của Đức Giê-su về Giáo Hội nhằm muốn nổi bật giáo huấn đối với những người có trách nhiệm trong cộng đoàn…
Đoạn Tin Mừng Mt 18,12-14 là sự nối kết của đoạn trước Mt 18,10-12. Đức Giê-su dặn dò các môn đệ: “Đừng khinh thường những kẻ bé mọn” (18,10) và nói đến sự “hư mất” (18,11), như thế cần đọc chung Mt 18,12-14 với 18,10-11 sẽ dễ hiểu ý của bản văn hơn.[5]
Mt 18,10-11: “10Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. [11Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất].” (Câu 11 để trong ngoặc vuông [ ] vì không có trong các thủ bản cổ).
Sự liên kết từ ngữ và ý tưởng giữa Mát-thêu 18,10-11 và 10,12-14 được thể hiện qua cấu trúc sau đây:
Cấu trúc Tin Mừng Mát-thêu 18,10-14
A. Mt 18,10: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này”
B. Mt 18,11: “Con Người đến để giải cứu cái gì đã hư mất” C. Mt 18,12-13: “Dụ ngôn con chiên lạc” A’. Mt 18,14a: “Cha không muốn một ai trong những kẻ bé mọn này” B’. Mt 18,14b: “phải hư mất”
|
Cấu trúc song song trên cho thấy “dụ ngôn con chiên lạc” đặt ở trọng tâm (C), để minh họa cho chủ đề chung của đoạn văn: Giáo huấn của Đức Giê-su về cách cư xử trong cộng đoàn đối với “những kẻ bé mọn” (A // A’). Đồng thời Đức Giê-su mặc khải về sứ vụ của Người: “Cứu cái gì đã hư mất” (B. 18,11) và mặc khải về ý định của Chúa Cha: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (B’. 18,14b). Động từ ἀπόληηmι/ hư mất), xuất hiện ở 18,11 và 18,14b, nên B // B’. Hình ảnh “con chiên bị lạc đường” trong dụ ngôn (18,12-13) là “những kẻ bé mọn trong cộng đoàn” và sự kiện “bị lạc đường” được so sánh với tình trạng “hư mất” cần được “cứu”. Hình ảnh con chiên bị lạc ám chỉ những người lầm lạc trong cộng đoàn, có thể họ đang bị sai lạc đạo lý hoặc sai lạc luân lý, mà theo Gutzwiller cho thấy ở đây có ba loại người lầm lạc: người biết mình lầm lạc, người không ý thức mình lầm lạc và những người thản nhiên không biết gì.[6]
Trước khi vào phân tích đoạn văn để hiểu hơn nội dung và ý nghĩa bên trong, chúng ta cần làm sáng tỏ một vài từ ngữ cũng như biết rõ hơn về hoàn cảnh thời điểm đó.
Đầu tiên ta cần biết nội dung của Mt 18,12-14: “ Τί ὑμῖν δοκεῖ; ἐὰν γένηταί τινι ἀνθρώπῳ ἑκατὸν πρόβατα καὶ πλανηθῇ ἓν ἐξ αὐτῶν, οὐχὶ ἀφήσει τὰ ἐνενήκοντα ἐννέα ἐπὶ τὰ ὄρη καὶ πορευθεὶς ζητεῖ τὸ πλανώμενον; καὶ ἐὰν γένηται εὑρεῖν αὐτό, ἀμὴν λέγω ὑμῖν ὅτι χαίρει ἐπ᾽ αὐτῷ μᾶλλον ἢ ἐπὶ τοῖς ἐνενήκοντα ἐννέα τοῖς μὴ πεπλανημένοις. οὕτως οὐκ ἔστιν θέλημα ἔμπροσθεν τοῦ πατρὸς ὑμῶν τοῦ ἐν οὐρανοῖς ἵνα ἀπόληται ἓν τῶν μικρῶν τούτων. / Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kả bé mọn này phải hư mất.”
– Chủ chăn – đàn chiên: hai hình ảnh này, được nói rất nhiều trong Kinh Thánh, ngay cả trong Cựu Ước. Ngay trong St 4,2 đã cho thấy hình ảnh của việc cày cấy đất đai, khởi đầu của lịch sử cội nguồn dân tộc Do-thái. Qua đó, hình ảnh về chủ chăn và đàn chiên, cũng như ý nghĩa bên trong về dân tộc như đàn chiên và Thiên Chúa là chủ chăn của dân tộc đã được nói trong rất nhiều tác phẩm trong Kinh Thánh (Cựu Ước cũng như Tân Ước).[7]
Một đặc điểm thú vị là dụ ngôn con chiên lạc trong Tin Mừng Mát-thêu cũng như Lu-ca, lại được diễn tả cũng như giải thích rõ hàng về hành động của người mục tử nằm trong Cựu Ước trong Sách Ngôn sứ Ê-dê-ki-en chương 34.[8]
– Một con chiên đi lạc/ το απολωλός πρόβατα: Động từ πλανηθῇ/ lạc lối được chia ở dạng bị động có nghĩa là bị lạc đường. Điều đó cho thấy con chiên không cố tình đi lạc, và bản văn cũng không quy chiếu lỗi cho con chiên. Mạch văn ở đây nối kết với ý tưởng đang nói về các “kẻ nhỏ”, là những con người yếu đuối, dốt nát, đi lạc… Nhất là nơi cộng đoàn, thì những kẻ nhỏ này đang bị khinh và và coi rẻ rúng.[9] Nhưng với Thiên Chúa thì mỗi người đều là duy nhất đối với Thiên Chúa.
– Bỏ 99 con trên núi mà đi tìm…: Trong Sách Ed không đề cập đến con số của con chiên, nhưng Mát-thêu cho thấy Đức Giê-su nhấn mạnh khía cạnh về việc tìm lại con chiên lạc đường (ai cũng có giá trị và ý nghĩa). Ở đây, ta thấy sự tương phản giữa 99 con chiên không đi lạc so với 1 con chiên bị lạc đường (tỷ lệ 1/100). Kế đến là nhấn mạnh ý tưởng không chắc sẽ tìm được con chiên lạc khi dùng kiểu nói: “Nếu may mà tìm được…” (18,13a), nghĩa là không chắc tìm được nhưng vẫn để 99 con chiên lại trên núi để đi tìm con chiên bị lạc. Cuối cùng là đề cao niềm vui khi tìm được con chiên lạc, bằng cách so sánh với 99 con chiên không bị lạc: “Người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (18,13b). Rõ ràng, dụ ngôn ám chỉ sứ vụ của Đức Giê-su, Ngài là mục tử đích thực, nhân lành, đến trần gian “để cứu cái gì đã hư mất”.
Cũng cần lưu ý từ “bỏ” ở đây: theo phong tục chăn chiên ở Pa-les-ti-ne “bỏ” có nghĩa là chiên đã ở trong rào, được an toàn, có người trông giữ rùi mới đi tìm chiên lạc.[10] Và con số 100 theo Hy-lạp là con số nhiều trung tính, nhưng theo người Do-thái khi nói về chiên, cừu là nói số lượng ít. Do đó, ta thấy rõ ám chỉ trong tin mừng mang khía cạnh cộng đoàn.[11]
– Mừng rỡ vì nó…: Nếu so sánh ở điểm này với Tin Mừng Lu-ca, thì Mat-thêu không diễn tả niềm vui quá nhiều như ở Lu-ca (trên trời, ai nấy cũng sẽ vui mừng… x. Lc 15,6-7). Nhưng xem ra lại hợp lý hơn theo cách của con người là vui mừng vì được tìm thấy. Và sự vui mừng cũng nhắc đến trong Ed 33,11: Thiên Chúa không vui gì khi kẻ gian phải chết nhưng vui mừng khi nó biết thay đổi đường lối; hay trong Kn 1,13: Thiên Chúa không làm ra cái chết, nên chẳng vui thích khi ai đó tiêu vong. Sự vui mừng của Mát-thêu cho thấy xem ra là hợp lý, vì con người vui mừng thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ mừng vui. Cách dùng từ “cha” cho thấy một sự thân mật của một tình cảm thiêng liêng mà Tin Mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh đến vai trò của người cha (tình phụ – tử) đối với Thiên Chúa, hơn là khía cạnh của Thiên Chúa với con người. Mặc dù Tin Mừng Mát-thêu không phải là Tin Mừng của lòng thương xót như Lu-ca, nhưng khía cạnh của người cha cũng hàm ý nói đến sự thương xót trong tin mừng.
– Không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này: Đây là một kết quả, để cho những người lãnh đạo, đứng đầu cộng đoàn nhận ra giá trị của việc làm. Bởi đây là ý muốn của Thiên Chúa trước những con người đang bị xa lánh, bỏ rơi…
Sau khi phân tích và tìm hiểu về ý nghĩa, cấu trúc trong đoạn văn Mt 18,12-14 nói về một dụ ngôn về con chiên lạc. Tuy rất ngắn gọn, nhưng cũng bao hàm rất nhiều nội dung, ý nghĩa và tư tưởng giá trị. Sau đây, là một vài điểm thần học đáng lưu tâm trong đoạn văn này:
Thứ nhất, trong đoạn Tin Mừng Mt 18,12-14 không đề cao việc làm của những người bé nhỏ, nhưng cho thấy giá trị của họ là duy nhất đối với Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Nhưng ai là những người bé nhỏ? Bé nhỏ ở đây có thể được hiểu theo nhiều nghĩa: tuổi tác, nguyên quán, thân thế, vóc dáng, tài năng, địa vị, sức khỏe, sự trưởng thành, học thức, của cải… Và điều này phải đánh động chúng ta, vì đụng chạm đến chúng ta ở chiều sâu; bởi lẽ ai trong chúng ta cũng « bé nhỏ » trước mặt Chúa và cả trước mặt nhau nữa về một phương diện nào đó. Nhưng thật ra, con người tự bản chất là bé nhỏ rồi, như lời Thánh Vịnh diễn tả: « Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8). Cũng như, ai trong chúng ta cũng là « tội nhân », trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Cảm nghiệm được điều này sẽ chữa lành cách bền vững những tương quan lệch lạc giữa chúng ta với nhau, nhất là thái độ tôn vinh bản thân và coi thường người khác. Và nếu chúng ta cảm thấy mình « lớn lao », thì Chúa mời gọi chúng ta trở nên « bé nhỏ », hay đúng hơn, nhận ra sự thật về mình là bé nhỏ và sống sự thật này trong tương quan với mình, với Chúa và với nhau. Nếu không, sẽ không được vào Nước Trời!
Thứ hai, Dụ ngôn con chiên lạc là một dụ ngôn nhỏ và rất ngắn vỏn vẹn chỉ có 2 câu (12-14). Nhưng giá trị của nó không hề nhỏ bởi qua dụ ngôn là lời giáo huấn mà chính Đức Giê-su đề cập đến vai trò và trách nhiệm của người mục tử. Qua dụ ngôn, Đức Giê-su đề cao một trong những nhiệm vụ của mục tử đích thực là “tìm kiếm những con chiên lạc đường”. Đó là sứ vụ của Đức Giê-su (18,11) và Ngài mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn Hội Thánh thi hành sứ vụ này. Dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về là điều Cha trên trời mong đợi, vì Người không muốn bất cứ kẻ bé mọn nào trong cộng đoàn bị hư mất. Cách cư xử đúng đắn của người mục tử là dành sự ưu ái và tình thương cho những thành viên trong cộng đoàn bị lạc đường. Tuy vậy, dường như trong cộng đoàn Mát-thêu nói riêng và trong cộng đoàn người tin qua mọi thời đại nói chung, “những kẻ bé mọn”, “những kẻ lầm đường lạc lối” vẫn chưa được các mục tử đối xử đúng mức. Ngày hôm nay, giáo huấn của Đức Giê-su vẫn cần được học hỏi và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng cộng đoàn.
Cuối cùng, hình ảnh con chiên lạc trong dụ ngôn hướng chúng ta nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa. Chính người chăn chiên ra đi để tìm con chiên lạc, chứ không phải ngồi chờ cho con chiên lầm lạc tự ý trở về. Chúng ta hãy nhớ lại cách Thiên Chúa đi tìm con người trong Sáng Tạo, trong lịch sử cứu độ, và nhất là nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể nơi mầu nhiệm Giáng Sinh mà chúng ta đang hướng về trong những ngày của Mùa Vọng. Thiên Chúa cũng muốn đi vào tương quan tình yêu với từng người trong chúng ta, dù chúng ta ở trong tình trạng nào, tội lỗi hay bé nhỏ. Bởi vì tình yêu chỉ có thể được bày tỏ và được hiểu trong tương quan duy nhất giữa một người và một người. Và chính kinh nghiệm được tìm kiếm, được tha thứ và được tiếp nhận, khi mà chúng ta vẫn là những người tội lỗi, bé nhỏ lạc lối, sẽ giúp chúng ta cũng có thể đi tìm kiếm, tha thứ và tiếp nhận anh em, chị em của chúng ta, dù họ đang trong tình trạng nào.
Đoạn Tin Mừng Mt 18,12-14 là những lời giáo huấn của Đức Giê-su, và là một thách đố cho các mục tử trong cộng đoàn. Dựa trên giáo huấn của Đức Giê-su: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” (18,10) và ý của Cha trên trời là “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (18,14), người mục tử được Đức Giê-su mời gọi bày tỏ lòng ưu ái và cảm thông đối với những con chiên lạc trong cộng đoàn. Dù con chiên đó cố tình hay vô ý đi lạc, dù con chiên đó lạc đường về đạo lý hay lạc đường về luân lý, người mục tử vẫn được mời gọi lên đường tìm kiếm con chiên lạc. Người mục tử cần ý thức trách nhiệm của mình, để dù cho sự tìm kiếm có khó khăn như trong đoạn Tin Mừng nói “nếu may mắn tìm được” hoặc dù cho “không may mắn tìm được” thì người mục tử cũng cảm thấy vui mừng vì cố gắng làm hết trách nhiệm của mình có thể.
Hình ảnh người mục tử trong Mt 18,12-14 có thể được mở rộng đến mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa. Trong đó, Đức Giê-su là mục tử duy nhất của đàn chiên. Chính Ngài đã trao quyền chăn dắt đàn chiên của Ngài cho các môn đệ: Đầu tiên là Nhóm Mười Hai, rồi đến các đấng kế vị Thánh Phê-rô. Ngày nay, ta thấy rõ qua chức vụ Giám mục, các linh mục, là những vị có nhiệm vụ trực tiếp chăn dắt đàn chiên được giao phó. Đồng thời, vai trò mục tử có thể được mở rộng đến những người có trách nhiệm trong cộng đoàn; các bậc phụ huynh trong vai trò giáo dục con cái; các thầy cô, các giáo lý viên trong vai trò giáo dục đức tin. Ngay cả các anh chị lớn đối với các em nhỏ. Nói cách khác, tất cả mọi người được Đức Giê-su mời gọi dành sự ưu ái và tình thương cho “những kẻ bé mọn”, “những kẻ lầm đường lạc lối”.
Quả thực, tình thương là sức mạnh lớn lao có khả năng cảm hoá và làm biến đổi con người, giúp con người sống tốt hơn, sống mạnh mẽ hơn và sống có lý tưởng hơn. Dẫn một con chiên lạc đường trở về, thực sự là một niềm vui lớn lao, và điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ những hành động thiết thực và nhờ tình thương. Hai yếu tố nền tảng: “Giáo huấn của Đức Giê-su” và “lòng mến” sẽ hướng dẫn mục tử và những người có trách nhiệm biết ứng xử thích hợp trong hoàn cảnh cụ thể. Hiểu ý nghĩa nội dung đoạn Tin Mừng Mt 18,12-14, người mục tử hay người có trách nhiệm sẽ biết cần làm gì trước hiện trạng “99 con chiên không bị lạc đường” và “1 con chiên đi lạc”. Đây là một thách đố lớn xưa cũng như nay, vì thế lời mời gọi của Đức Giê-su vẫn là những lời mời gọi vô cùng ý nghĩa cho những gì thiết thực của vai trò người mục tử của trần gian và của lòng Chúa ước mong.
[1] X. Kinh Thánh Cựu Ước & Tân Ước, Bd. của Các Giờ Kinh Phụng Vụ, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2009, tr.1629, note *18,12.
[2] Sources Chrétiennes N0 259, Saint Jérôme Commentaire sur Saint Matthieu, traduite par Émile Bonnard, Paris: Les Éditions du Cerf, 1979, p.57.
[3] X. Kinh Thánh Cựu Ước & Tân Ước, Bd. của Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Hà Nội: Tôn Giáo, 2009, tr.1580.
[4] X. P. Benoît & M. – E. Boismard, Synopse des quatre Évangile en français, Tome II, Paris: Les Éditions du Cerf, 1972, note 230 et 231, p.294-295.
[5] Ibid., note 178, p.276.
[6] Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR, Đọc Tin Mừng Thánh Matthêu, Tập V Chương 15-22, NXB. Tôn Giáo, 2019, 153.
[7] X. Xavier Léon-Dufon, Vocabulaire de Théologie Publique, Paris: Les Éditions du Cerf, 1970, p.917-921.
[8] X. P. Benoît & M. – E. Boismard, Synopse des quatre Évangile en français, Tome II, Paris: Les Éditions du Cerf, 1972, note 230 et 231, p.294-295.
[9] Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR, Đọc Tin Mừng Thánh Matthêu, Tập V Chương 15-22, NXB. Tôn Giáo, 2019, tr.152.
[10] X. Phêrô Hoàng Minh Tuấn, CSsR, Đọc Tin Mừng Thánh Matthêu, Tập V Chương 15-22, NXB. Tôn Giáo, 2019, tr.153.
[11] X. Claude Tresmontant, Évangile de Matthieu, Paris: O.E.I.L, 1986, p.232-233.
Chúa Giêsu đã nói với Chị Marthe Robin ngay khi thành lập Công Trình Foyer de Charité: “ Ta muốn tất cả mọi thành viên của Công Trình phải là những vị thánh” (BVSL).
Cha Georges Finet người đồng Sáng Lập công trình Foyer đã định nghĩa; các thành viên trong Công Trình Foyer De Charité là những người nam, người nữ đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy…. một sự xác tín nền tảng trong ý muốn nên thánh của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành viên trong công trình. Bởi qua Bí Tích Thanh Tẩy – Phép Rửa Mới trong Thánh Thần thì mọi người lãnh nhận Phép Rửa đều được mời gọi nên thánh để làm chứng nhân cho Thiên Chúa là Đấng Thánh.
…Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi phải nên thánh và sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh (Lv 11,44).
…các ngươi hãy là thánh vì Ta là Đấng Thánh (1Pr 1,16).
Theo nghĩa này thì người tín hữu không phải trở nên thánh mà vốn đã là thánh. Chúa Thánh Thần tác động trên mỗi người chúng ta. Khi kêu cầu Chúa Thánh Thần đến lần nữa trong tâm hồn người đã được Rửa tội, chúng ta phải nói đến sự kiện đó theo lối nhìn của điều “đã được lãnh nhận rồi”, hay nói khác đi, phải đi từ sự kiện nền tảng là khi chịu Phép Thánh Tẩy, người Kitô hữu đã lãnh nhận Thánh Thần cách trọn vẹn. Ngài không cần phải đến nữa. Ngài đã hiện diện một cách nền tảng ngay từ khi ta bắt đầu sống đời Kitô hữu, nghĩa là khi chúng ta chịu Phép Rửa; cho dẫu ta chỉ ý thức về sự hiện diện ấy sau này, khi ta trưởng thành có khả năng xác định được những đòi hỏi của Phép Rửa tội mà ta đã lãnh nhận như Giáo Hội mong đợi. Thánh Thần ở trong ta; lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện; người đã lãnh nhận Bí Tích Rửa tội trở thành nơi cư ngụ của Ba Ngôi Chí Thánh.
Do đó, sự thánh thiện (nên thánh) không phải là điều cao xa, không vươn tới được. Sự thánh thiện Kitô hữu đã được ban cho chúng ta ngay từ đầu. Hay nói đúng hơn, chúng ta không phải trở nên thánh, mà vốn là thánh, chúng ta phải trở nên cái chúng ta hiện đang là. Chúng ta đã lãnh nhận Thánh Thần của Thiên Chúa như là bảo chứng của tình yêu. Chúng ta phải trung thành khai mở những kho tàng tiềm ẩn, những năng lực mà Chúa Thánh Thần đặt để nơi chúng ta.
Trong suốt cuộc đời Kitô hữu, mỗi bí tích đều có tác động của Chúa Thánh Thần và ngày càng thấm nhuần con người và hoạt động của chúng ta hơn. Nguồn mạch Phép Rửa tội là nguồn mạch đầu tiên, từ đó phát sinh mọi nguồn mạch để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu. Đó là quá trình tiệm tiến nhằm Kitô hóa người tín hữu. Như thế, khi lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức không phải lúc đó chúng ta nhận thêm Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận Thánh Thần rồi. Phép thêm sức không bổ sung cho phép rửa, mà xác nhận phép rửa.
Khi chúng ta sống trọn vẹn ơn gọi của Bí Tích Rửa tội là chúng ta đang sống thánh. Đây cũng chính là Linh Đạo của các thành viên trong Công Trình Foyer de Charité được mời gọi sống triệt để mỗi ngày, để tận hiến cho Chúa Giêsu qua tay Đức Mẹ Maria.
Maria Nhỏ
Témoignage d’un catéchiste après deux jours de retraite à la Communauté Foyer de Charité Phu Dong
Comme la surface d’un lac, s’il y a des ondulations, nous ne pourrons pas nous voir. L’âme humaine est la même, nous avons besoin d’un temps calme pour nous regarder, réfléchir et avoir une nouvelle détermination.
La retraite de Carême 2023 sur le thème « Avec Jésus au Calvaire », m’a éloigné des soucis d’une l’épouse et d’une mère de famille. Grâce à cela, j’ai eu un espace et du temps tranquilles à la Communauté Foyer de Charité Phu Dong. Sous la direction du Père Jean Baptiste Dinh Tien Huong, et avec l’aide des frères, j’ai eu un moment de recueillement (à cause des soucis de la vie tels que : riz, vêtements, argent… ont été laissé de côté) pour être proche de Dieu.
Le samedi soir 25 mars 2023, la lumière des bougies semblait m’éclairer plus clairement sur l’amour et la grâce de Dieu, en particulier à travers les prières partagées des catéchistes. Ainsi, je vois que dans tout ce que je fais, j’ai besoin de la grâce de Dieu, et j’ai besoin de Le prier, car « la grâce de Dieu me suffit ». De plus, j’ai ressenti l’amour et l’acceptation de la communauté par le bruit des catéchistes adolescents. De plus, le Père, les frères et sœurs dans la Communauté de Charité Phu Dong ont gracieusement et désintéressé servi à travers des conférences, des activités et des repas. Je remercie Dieu, tout est Grâce.
La retraite m’a aidé à réaliser :
+ Pratiquer l’acceptation mutuelle, y compris les enseignants, les parents et les élèves.
+ Non seulement prier pour ma famille ou moi-même mais j’ai aussi besoin de prier pour chaque membre de la famille du catéchiste, pour les élèves, en particulier les élèves spéciaux.
+ Le catéchiste doit avoir une profonde vie intérieure avec Dieu à travers la prière, la messe et les sacrements.
+ Doit changer de mentalité dans la manière de vivre et d’enseigner, car un catéchiste n’est pas un enseignant mais un témoin.
Témoin
Maria Pham Thi Nu